Tổ chức nào làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng?

Tổ chức nào làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng?

Tổ chức nào đảm nhận vai trò bồi thường và giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất của công dân? Khám phá quy trình chung và quyền khiếu nại của người dân trong hoạt động này

1. Một số khái quát chung về hoạt động bồi thường, giải phóng mặt bằng:

Thu hồi đất là quy trình pháp lý liên quan đến việc quản lý đất đai mà các cơ quan Nhà nước thường thực hiện khi đúng vào một trong các trường hợp thu hồi đất theo đúng quy định của pháp luật.

– Theo Luật đất đai 2013, có quy định về các hình thức bồi thường mà Nhà nước áp dụng khi thu hồi đất như sau:

- Khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh hoặc phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng, người sử dụng đất sẽ được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại.

- Người sử dụng đất còn được bồi thường về đất và chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình hoặc cá nhân.

- Bồi thường về đất và chi phí đầu tư vào đất còn lại sẽ được Nhà nước hỗ trợ khi thu hồi đất nông nghiệp từ các tổ chức kinh tế, tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ tài chính, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo.

- Trong trường hợp thu hồi đất ở, người sử dụng đất sẽ được Nhà nước bồi thường về đất.

- Khi Nhà nước thu hồi đất phi nông nghiệp không phải là đất ở của hộ gia đình, cá nhân, Nhà nước sẽ tiến hành bồi thường về đất và chi phí đầu tư vào đất còn lại.

- Người được bồi thường bao gồm tổ chức kinh tế, tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ tài chính, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Luật Đất đai 2013 quy định về người chịu trách nhiệm trong việc thực hiện giải phóng mặt bằng khi thu hồi đất như sau:

+ Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền sẽ ban hành thông báo thu hồi đất đến các công dân trong khu vực có đất thu hồi và thông báo này sẽ được đăng trên phương tiện truyền thông công cộng, treo tại trụ sở của Ủy ban nhân dân cấp xã và tại nơi tập trung sinh hoạt chung của cư dân trong khu vực có đất bị thu hồi.

Ủy ban nhân dân cấp xã phải hợp tác với các tổ chức để thực hiện nhiệm vụ bồi thường và giải phóng mặt bằng trong kế hoạch thu hồi đất. Việc này bao gồm điều tra, khảo sát, đo đạc và kiểm đếm.

Người sử dụng đất có trách nhiệm hợp tác với các tổ chức để thực hiện nhiệm vụ điều tra, khảo sát và đo đạc để xác định diện tích đất, thống kê nhà ở và tài sản khác liên quan để lập phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.

Trong trường hợp người sử dụng đất trong khu vực có đất bị thu hồi mà không có sự phối hợp với tổ chức đang thực hiện việc bồi thường và giải phóng mặt bằng trong quá trình điều tra, khảo sát, đo đạc và kiểm đếm, Ủy ban nhân dân cấp xã và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã của khu vực đó sẽ phải tổ chức các hoạt động vận động và thuyết phục người sử dụng đất để tuân thủ quy định.

Nếu xét tổng quan, Luật đất đai 2013 đã đề ra các quy định khá cụ thể và khách quan về hoạt động bồi thường và giải phóng mặt bằng.

2. Tổ chức nào làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng?

Bồi thường và giải phóng mặt bằng là nhiệm vụ mà cơ quan có thẩm quyền phải thực hiện khi ra quyết định thu hồi đất. The content fragment như theo sau:

Theo đó, Nhà nước sẽ quy định về một hay nhiều tổ chức riêng, chuyên chịu trách nhiệm thực hiện các hoạt động này.

- Tổ chức được quy định tại Khoản 1 Điều 68 Luật đất đai 2013 là người chịu trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ bồi thường và giải phóng mặt bằng.

Tổ chức về tiến hành bồi thường, giải phóng mặt bằng bao gồm dịch vụ công về đất đai, Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Những tổ chức này có trách nhiệm đo lường, đo đạc đất đai để đưa ra các con số chính xác nhằm hỗ trợ quyết định về bồi thường, giải phóng mặt bằng cho các cơ quan có thẩm quyền.

Theo quy định này, các tổ chức công về đất đai, Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư có nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng. Những tổ chức này được các cơ quan Nhà nước bầu ra. Đối với cán bộ và công chức làm việc trong tổ chức này, họ phải có kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm liên quan đến nhiệm vụ một cách đầy đủ và sâu sắc. Luật đất đai năm 2013 đã đề ra quy định chi tiết về tổ chức thực hiện nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng, đồng nghĩa với việc tổ chức này cần có chuyên môn trong việc thực hiện các hoạt động pháp lý liên quan đến vấn đề này.

- Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng, tổ chức dịch vụ công về đất đai, Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cần tiến hành các hoạt động sau đây:

- Tiến hành đo đạc, kiểm tra chính xác diện tích đất đai thuộc diện thu hồi, nhằm đưa ra kết luận đền bù đất đai một cách khách quan và toàn diện nhất.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình, tổ chức dịch vụ công về đất đai, Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cần đảm bảo làm việc một cách chính xác, nghiêm túc, theo đúng nghiệp vụ của mình, nhằm hạn chế tối đa các vi phạm có thể xảy ra.

Trong trường hợp xảy ra bất kỳ vi phạm nào liên quan đến hoạt động bồi thường, giải phóng mặt bằng, tổ chức này sẽ chịu trách nhiệm trước Nhà nước và nhân dân.

Quy định về tổ chức chịu trách nhiệm chuyên biệt trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng nhằm mục tiêu thúc đẩy việc giải quyết toàn diện của công tác này, đảm bảo đạt được hiệu quả cao nhất, bảo vệ toàn diện quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất.

3. Nếu không đồng ý với hoạt động bồi thường, giải phóng mặt bằng của Nhà nước, người dân được phép khiếu nại hay không?

Khiếu nại là một trong những quyền công dân của người dân trước những quyết định hành chính, pháp lý mà Nhà nước đưa ra.

Theo quy định tại Điều 7 và Điều 9 của Luật Khiếu nại 2011, khi một người bị thu hồi đất cho rằng việc bồi thường và giải phóng mặt bằng không chính xác và không phù hợp với kế hoạch bồi thường đã được công khai, vi phạm thời hạn thông báo trước, cưỡng chế kiểm đếm sai quy trình và các vấn đề tương tự, người đó có quyền khiếu nại đến cơ quan hoặc người thực hiện để yêu cầu các quyết định cần thiết. Thời hạn để khiếu nại trong vòng 90 ngày tính từ khi phát hiện vi phạm.

Sau khi nhận được đơn khiếu nại từ người dân, trong vòng 10 ngày (kể từ khi nhận được đơn khiếu nại), cơ quan có thẩm quyền phải tiếp nhận và tiến hành đối thoại, sau đó sẽ đưa ra quyết định để giải quyết khiếu nại. Quyết định giải quyết khiếu nại này sẽ được công bố trong tối đa 45 ngày tiếp theo (60 ngày đối với khu vực sâu, vùng xa và các vùng khó khăn trong việc di chuyển).

Trong vòng 30 ngày kể từ ngày cuối cùng để xử lý vụ việc, nếu không có quyết định hoặc không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại, người sử dụng đất có thể tiếp tục khiếu nại lên cấp trên hoặc khởi kiện vụ án hành chính ra Tòa án có thẩm quyền.

Khiếu nại là quyền của công dân. Trong quá trình bồi thường, giải phóng mặt bằng, nếu phát hiện bất kỳ sai phạm nào (ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của người sử dụng đất), người sử dụng đất có quyền khiếu nại. Hoạt động khiếu nại giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân một cách tối ưu nhất. Khi có các sai phạm cụ thể, cơ quan chức năng có thẩm quyền sẽ đưa ra phương án xử lý kịp thời. Điều này là cơ sở để tạo ra những giá trị khách quan, toàn diện và chất lượng trong công tác thu hồi và bồi thường đất, cũng như hỗ trợ quản lý các hoạt động khách quan liên quan đến đất đai.

Từ phân tích trên, có thể khẳng định rằng nếu không đồng ý với việc giải phóng mặt bằng do các cơ quan Nhà nước tiến hành, người dân có quyền khiếu nại tới cơ quan chức năng có thẩm quyền. Điều này giúp bảo vệ quyền lợi của công dân và giảm thiểu rủi ro và những sai sót có thể xảy ra trong quá trình thu hồi đất.

Luật pháp được sử dụng trong nội dung này là :

Luật đất đai 2013;

Luật khiếu nại 2011.