Người được hưởng tiền đền bù khi nhà nước thu hồi đất?

Người được hưởng tiền đền bù khi nhà nước thu hồi đất?

Người được bồi thường khi nhà nước thu hồi đất có đủ điều kiện theo quy định của Luật đất đai Bài viết này sẽ trình bày về trường hợp chủ đất chết và trường hợp mua bán đất chưa sang tên khi thu hồi đất, cùng với nguyên tắc bồi thường được áp dụng

1. Người được hưởng tiền đền bù khi nhà nước thu hồi đất?

1.1. Trường hợp chủ đất chết khi nhà nước thu hồi đất:

Nhằm xác định người được hưởng tiền bồi thường đất trong trường hợp chủ đất không còn sống khi nhà nước thu hồi đất, ta cần tìm hiểu quy định về điều kiện bồi thường đất khi nhà nước thu hồi. Theo Điều 75 của Luật đất đai 2013, điều kiện bồi thường về đất khi nhà nước thu hồi được xác định như sau:

Đối với hộ gia đình và cá nhân đang sử dụng đất bị nhà nước thu hồi, để được bồi thường về đất, loại đất bị thu hồi đó phải đáp ứng các điều kiện sau: không phải là đất thuê trả tiền thuê hàng năm, có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định nhưng chưa được cấp.

Bên cạnh đó, theo quy định của pháp luật, trong trường hợp không đủ quỹ đất để bồi thường hoặc người sử dụng đất không mong muốn nhận bồi thường bằng đất, họ có quyền nhận bồi thường bằng tiền.

Từ đó có thể thấy, để được bồi thường khi nhà nước thu hồi đất, người sử dụng đất phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng chưa được cấp.

Sau đó, đối với việc xác định ai sẽ được nhận tiền bồi thường đất trong trường hợp chủ đất qua đời khi nhà nước thu hồi đất, chúng ta áp dụng các quy định sau đây:

Theo quy định tại Điều 612 của Bộ luật dân sự năm 2015 về di sản thừa kế, ta hiểu rằng di sản thừa kế sẽ bao gồm cả tài sản riêng của người đã mất và phần tài sản của người đã mất trong tài sản chung với người khác.

Theo quy định của Điều 105 trong Bộ luật Dân sự 2015, tài sản là những vật, tiền, giấy tờ có giá trị và quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản được xác định là bao gồm đất đai, nhà cửa, công trình xây dựng liền kề với đất đai, và các tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà cửa, công trình xây dựng; và các tài sản khác theo quy định của pháp luật.

Do vậy, dựa trên các quy định trên, ta có thể hiểu rằng quyền sử dụng đất cũng là một loại di sản có thể thừa kế. Vì vậy, nếu người sở hữu quyền sử dụng đất qua đời, quyền sử dụng đất đó sẽ được thừa kế theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật. Nói một cách dễ hiểu hơn, khoản tiền bồi thường nhận được khi nhà nước thu hồi đất sẽ trở thành một loại di sản thừa kế và sẽ được trả cho những người thừa kế.

Trong trường hợp chủ đất chết và có để lại di chúc chỉ định ai là người được nhận số tiền đó, người đó sẽ nhận được số tiền khi di chúc có hiệu lực pháp luật.

Nếu không có di chúc hoặc di chúc không chỉ định người được nhận tiền, thì chúng ta sẽ áp dụng quy định tại điều 657, Bộ luật dân sự 2015 về thừa kế theo pháp luật. Theo quy định này, những người sau đây sẽ được nhận tiền bồi thường đất trong trường hợp chủ đất chết và nhà nước thu hồi đất:

Hàng thừa kế thứ nhất bao gồm vợ, chồng, cha, mẹ, cha mẹ nuôi, con cái ruột, và con cái nuôi của người đã qua đời.

Hàng thừa kế thứ hai bao gồm ông ngoại, bà ngoại, ông nội, bà nội, anh chị em ruột và cháu ruột của người đã qua đời, nếu người đã qua đời là ông ngoại, bà ngoại, ông nội, hoặc bà nội.

Hàng thừa kế thứ ba bao gồm: cụ nội, cụ ngoại của người qua đời; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người qua đời; cháu ruột của người qua đời mà người qua đời là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người qua đời mà người qua đời là cụ nội, cụ ngoại.

Theo quy định của pháp luật, những người trong hàng thừa kế sau chỉ có quyền thừa kế khi không còn ai trong hàng thừa kế trước đã qua đời, không được quyền thừa kế, bị tước quyền thừa kế hoặc từ chối nhận di sản. Cụ thể, nếu vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người có quyền sử dụng đất đã mất thì sẽ được nhận khoản tiền bồi thường đất. Nếu tất cả những người này đều đã qua đời, không còn ai thì hàng thừa kế thứ hai sẽ đến lượt, gồm ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người qua đời; cháu ruột của người qua đời mà người qua đời là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại. Và nếu tất cả những người trong hàng thừa kế thứ hai cũng đã mất không còn ai, thì người trong hàng thừa kế thứ ba mới được nhận khoản tiền bồi thường hoàn trả đất đó.

Chú ý rằng: Các người thừa kế cùng thứ bậc sẽ được chia phần di sản bằng nhau. Điều đó có nghĩa là trong trường hợp người sở hữu mảnh đất đã qua đời nhưng vợ chồng, cha mẹ ruột, cha mẹ nuôi, con ruột, con nuôi đang sống, thì khoản tiền bồi thường sẽ được chia đều cho tất cả mọi người, với số lượng tương đương. Không phải cha mẹ ruột sẽ được nhận nhiều hơn cha mẹ nuôi, cũng không phải con ruột sẽ nhận nhiều hơn con nuôi, ...

Tổng kết lại, khi nhà nước thu hồi đất từ mảnh đất đã qua đời, người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật sẽ nhận được khoản tiền bồi thường theo quy định pháp luật.

1.2. Trường hợp mua bán đất viết tay chưa sang tên khi nhà nước thu hồi đất:

Giống như ví dụ trước, để xác định ai sẽ được bồi thường đất khi nhà nước thu hồi đất trong trường hợp mua bán đất viết tay chưa sang tên, cần đáp ứng điều kiện sau đây:

Đối với hộ gia đình hoặc cá nhân đang sử dụng đất bị thu hồi, đất bị thu hồi phải thỏa mãn các yêu cầu sau đây: không phải là đất thuê trả tiền thuê đất hàng năm, có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định nhưng chưa được cấp.

Đối với trường hợp mua bán đất viết tay chưa sang tên sổ đỏ, ta dựa trên quy định tại khoản 1 Điều 82 Nghị định 43/2014/NĐ-CP đã được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 54 Điều 2 Nghị định 01/2017/NĐ-CP, về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất mà không cần nộp hợp đồng chuyển nhượng đất theo quy định pháp luật.

Như vậy, dựa vào các quy định trên, có thể thấy rằng việc mua bán đất bằng giấy tờ viết tay trước ngày 01 tháng 01 năm 2008 vẫn được công nhận để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người mua. Hoặc nếu giấy tờ mua bán đó được thực hiện sau năm 2008 nhưng trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 và có các giấy tờ chứng minh về quyền sử dụng đất, thì cũng sẽ được công nhận. Điều này có nghĩa là trong những trường hợp này, người mua vẫn được đảm bảo quyền lợi đối với mảnh đất đã mua, hay nói cách khác, khi nhà nước thu hồi chính xác mảnh đất được mua bằng giấy tờ viết tay, người mua đó mua trước ngày 01 tháng 01 năm 2008 hoặc giấy tờ mua bán đó sau năm 2008 nhưng trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 và có các giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất, người mua đất đó sẽ là người được nhận tiền bồi thường từ nhà nước.

2. Nguyên tắc bồi thường khi nhà nước thu hồi đất:

Căn cứ theo quy định tại điều 74, Luật đất đai 2013 thì khi bồi thường đất cần phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây:

Một là, người sử dụng đất chỉ được được bồi thường nếu đáp ứng đủ các yêu cầu bồi thường theo quy định của Luật đất đai.

Hai là, khi bồi thường đất cho người sử dụng đất, cần đảm bảo loại đất được bồi thường có cùng mục đích sử dụng như loại đất thu hồi. Trong trường hợp không có đất để bồi thường, sẽ được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi, do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm thu hồi đất.

Trong trường hợp Nhà nước thu hồi đất, việc bồi thường phải đảm bảo các nguyên tắc dân chủ, khách quan, công bằng, công khai, đúng thời hạn và tuân thủ quy định của pháp luật.

– Bộ luật dân sự 2015

– Luật đất đai 2013