Khiếu nại đền bù đất giải phóng mặt bằng không thỏa đáng

Khiếu nại đền bù đất giải phóng mặt bằng không thỏa đáng

Khiếu nại đền bù đất giải phóng mặt bằng không thỏa đáng: Ảnh hưởng của hạn chế và quy định pháp luật đối với quyền lợi của người sử dụng đất trong hoạt động giải phóng mặt bằng tại Việt Nam

1. Quy định của pháp luật về giải phóng mặt bằng. Các hạn chế còn tồn đọng trong hoạt động đền bù giải phóng mặt bằng:

1.1. Quy định của pháp luật về giải phóng mặt bằng:

– Hiện nay, việc thu hồi và giải phóng mặt bằng đang ngày càng trở nên phổ biến hơn ở nước ta. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này, như thay đổi cơ cấu tổ chức để phát triển kinh tế và xã hội theo định hướng của Nhà nước. Việc thu hồi đất nhằm mục đích sử dụng cho việc xây dựng hạ tầng và các dự án phục vụ phát triển kinh tế, an ninh quốc phòng.

Để thực hiện quy trình thu hồi và giải phóng mặt bằng, các cơ quan có thẩm quyền sẽ phải tiến hành nhiều công việc và các giai đoạn khác nhau. Trong từng công việc và giai đoạn này, các cơ quan ban ngành sẽ đảm nhận những nhiệm vụ và vai trò cụ thể tương ứng.

Luật đất đai 2013 quy định về người chịu trách nhiệm trong việc giải phóng mặt bằng khi thu hồi đất như sau:

Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền sẽ cung cấp thông báo thu hồi đất đến các cư dân trong khu vực bị thu hồi đất thông qua phương tiện thông tin công cộng và niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã cũng như địa điểm sinh hoạt chung của cư dân trong khu dân cư bị thu hồi đất.

+ Ủy ban nhân dân xã phải hợp tác cùng tổ chức thực hiện kế hoạch thu hồi đất, đồng thời tiến hành điều tra, khảo sát, đo đạc và kiểm đếm;

+ Người sử dụng đất cần phối hợp với tổ chức thực hiện việc điều tra, khảo sát, đo đạc để xác định diện tích đất, thống kê nhà ở và tài sản khác liên quan để lập phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.

Trường hợp người sử dụng đất trong khu vực không phối hợp với tổ chức thực hiện nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng trong quá trình điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm, Ủy ban nhân dân cấp xã và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng sẽ tổ chức vận động, thuyết phục người sử dụng đất thực hiện.

1.2. Các hạn chế còn tồn đọng trong hoạt động đền bù giải phóng mặt bằng:

Đền bù giải phóng mặt bằng là hoạt động pháp lý mà cơ quan chức năng có thẩm quyền phải thực hiện khi thu hồi đất của người dân. Bản chất của đền bù giải phóng mặt bằng là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân trong quá trình sử dụng đất.

Xét trong thực tế hiện nay, việc đền bù giải phóng mặt bằng tại nước ta vẫn gặp phải một số hạn chế nhất định. Cụ thể như sau:

- Trong quá trình thu hồi đất, cơ quan chức năng chưa thực sự kiểm đếm và rà soát đất đai của người dân một cách cụ thể và cẩn thận. Do đó, có những trường hợp người dân bị bỏ qua trong việc đền bù giải phóng mặt bằng.

- Công tác bồi thường giải phóng mặt bằng của cơ quan Nhà nước chưa được thực hiện một cách khách quan và minh bạch. Các số liệu về giá trị bồi thường mà Nhà nước công bố chưa đáp ứng được yêu cầu, không rõ ràng. Điều này gây ra tranh cãi và sự bức xúc trong cộng đồng.

- Sự chênh lệch giữa giá trị bồi thường giải phóng mặt bằng và giá trị quyền lợi thực tế của người sử dụng đất là rất lớn. Theo đúng quy định, người sử dụng đất nên được bồi thường với giá trị cao khi bị giải phóng mặt bằng, nhưng quyết định bồi thường của Nhà nước lại thấp hơn (chênh lệch này ảnh hưởng trực tiếp và nghiêm trọng đến quyền lợi sử dụng đất của người dân).

Những hạn chế vẫn còn tồn tại trong quá trình đền bù giải phóng mặt bằng đã được trình bày ở trên. Tuy nhiên, những hạn chế này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người dân mà còn ảnh hưởng đến chất lượng quản lý đất đai của các cơ quan chức năng và niềm tin của người dân đối với chính quyền. Điều này đòi hỏi chúng ta phải xem xét và khắc phục những trường hợp liên quan đến việc đền bù đất giải phóng mặt bằng nếu muốn đảm bảo lợi ích của người sử dụng đất.

2. Khiếu nại đền bù đất giải phóng mặt bằng không thỏa đáng:

Trước những quyết định đền bù giải phóng mặt bằng không công bằng mà Nhà nước áp đặt, người dân thường tìm đến việc khiếu nại. Nói cách khác, khiếu nại đền bù giải phóng mặt bằng là việc người sử dụng đất muốn đề nghị hoặc phản ánh sự không đồng ý của mình đối với quyết định đền bù của Nhà nước. Đồng thời, hoạt động khiếu nại đền bù giải phóng mặt bằng không công bằng cần tuân thủ theo quy định của pháp luật về thủ tục khiếu nại và giải quyết khiếu nại.

Theo quy định của Luật Đất đai 2013, các cơ quan, tổ chức, cá nhân (người sử dụng đất), người có quyền và nghĩa vụ liên quan đến sử dụng đất có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính về quản lý đất đai. Đối với quyết định thu hồi đất nông nghiệp để đấu giá, nếu người dân cho rằng việc thu hồi đất như vậy là không hợp lý, họ có quyền khiếu nại tới chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp quận, huyện hoặc chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

Điều 7 và Điều 9 của Luật khiếu nại năm 2011 cũng quy định một cách rõ ràng. Trong trường hợp người bị thu hồi đất có lý do cho rằng kết quả kiểm đếm không chính xác, kiểm đếm không tuân theo kế hoạch đã được công khai, vi phạm thời hạn thông báo trước, hoặc vi phạm quy trình kiểm đếm, người bị thu hồi đất có quyền khiếu nại đến cơ quan chức năng và yêu cầu đưa ra quyết định. Thời hạn để khiếu nại là 90 ngày kể từ ngày phát hiện sai phạm (tức là người dân phải khiếu nại trong vòng 90 ngày kể từ ngày phát hiện sai phạm).

Sau khi nhận được đơn khiếu nại từ người dân, cơ quan có thẩm quyền phải thụ lý vụ việc và tiến hành đối thoại trong vòng 10 ngày kể từ khi nhận đơn khiếu nại. Sau đó, cơ quan này phải ra quyết định giải quyết khiếu nại trong tối đa 45 ngày (hoặc 60 ngày đối với vùng sâu, vùng xa, và nơi có điều kiện giao thông khó khăn).

Trong vòng 30 ngày sau hạn giải quyết vụ việc, nếu không có quyết định hoặc quyết định không đồng ý giải quyết khiếu nại, người sử dụng đất có thể tiếp tục khiếu nại lên cấp trên hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án có thẩm quyền.

Dựa trên nội dung phân tích trên, có thể khẳng định rằng nếu không đồng ý với công tác đền bù giải phóng mặt bằng của Nhà nước, người dân có quyền khiếu nại tới cơ quan chức năng có thẩm quyền. Hoạt động khiếu nại phải tuân thủ đúng quy trình và thủ tục được nêu trên. Chỉ khi đó, cơ quan chức năng có thẩm quyền mới có thể xem xét và đưa ra phương án giải quyết phù hợp nhất.

3. Việc khiếu nại đền bù đất giải phóng mặt bằng không thỏa đáng có ý nghĩa như thế nào?

Người dân có quyền khiếu nại đối với việc đền bù đất giải phóng mặt bằng không hợp lý. Khiếu nại là một cách để người dân sử dụng quyền công dân của mình.

Hoạt động khiếu nại của người dân giúp cơ quan chức năng kiểm tra và xem xét lại quá trình đền bù giải phóng mặt bằng. Nếu phát hiện sai phạm, sẽ đưa ra biện pháp xử lý kịp thời nhất (bao gồm cả việc đặt trách nhiệm cho cá nhân vi phạm).

Thông qua hoạt động khiếu nại, người sử dụng đất có thể bảo vệ quyền lợi của mình liên quan đến việc đền bù giải phóng mặt bằng. Trong thực tế, quá trình đền bù có thể xảy ra nhiều sai sót, bất kể là do khách quan hay chủ quan. Nếu không có khiếu nại, quyền lợi của người dân sẽ không được xem xét và giải quyết; các vi phạm cũng sẽ không được phát hiện và điều chỉnh.

Công tác khiếu nại là một phương pháp giúp điều chỉnh và cải thiện hoạt động đất đai trong hệ thống chính quyền. Từ đó, nó mang lại sự minh bạch và khách quan trong quá trình thu hồi và đền bù đất, cũng như quản lý Nhà nước về đất đai.

Vì những ý nghĩa nêu trên, khi phát hiện các vi phạm trong công tác bồi thường giải phóng mặt bằng, người sử dụng đất sẽ đệ đơn khiếu nại để được xử lý.

Luật đất đai 2013;

Luật khiếu nại 2011.