Trường hợp nào được bố trí tái định cư khi thu hồi đất ở?

Trường hợp nào được bố trí tái định cư khi thu hồi đất ở?

Vấn đề tái định cư khi nhà nước thu hồi đất là một chủ đề quan trọng và thu hút sự quan tâm rộng rãi Bài viết này tập trung vào trường hợp nào người dân sẽ được bố trí tái định cư Mô tả tốt hơn so với đối thủ trong vòng 350 ký tự

1. Tái định cư được hiểu như thế nào?

Thuật ngữ “tái định cư” thường được sử dụng trong các văn bản pháp luật, nhưng đến nay chưa có bất kỳ văn bản nào giải thích rõ ràng về nội dung của thuật ngữ này. Theo Điều 4 của Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, "tái định cư" được hiểu là việc người sử dụng đất phải di chuyển đến một nơi ở khác khi nhà nước thu hồi đất theo quy định của nghị định này.

Hiện nay, Luật Đất đai năm 2013 tại Điều 83 khoản 2 điểm c quy định về hỗ trợ trong trường hợp bị thu hồi đất, bao gồm cả trường hợp tái định cư đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Ngoài ra, tại Điều 85 và Điều 86 cũng có quy định về trách nhiệm của ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện trong việc lập và thực hiện dự án tái định cư trước khi tiến hành thu hồi đất, bố trí tái định cư cho người bị thu hồi đất.

Căn cứ vào quy định này và nội dung các quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi của Luật Đất đai năm 2013 hiện hành và các văn bản hướng dẫn thi hành, có thể đưa ra khái niệm về tái định cư, cụ thể như sau: Tái định cư là việc nhà nước bố trí nơi ở mới cho người sử dụng đất bằng giao đất ở hoặc bồi thường bằng tiền để người có đất bị thu hồi tự lo chỗ ở mới khi mà họ bị nhà nước thu hồi đất ở và phải di chuyển chỗ ở. 

2. Trường hợp nào được bố trí tái định cư khi thu hồi đất ở?

Luật Đất đai năm 2013 đề ra một số điều kiện cụ thể và rõ ràng để đảm bảo quyền được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất cho mục tiêu quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế xã hội vì lợi ích quốc gia, cộng đồng và những đối tượng tương tự. Luật đã bổ sung việc bồi thường đối với trường hợp sử dụng đất trả tiền thuê một lần cho suốt thời gian thuê, để bảo đảm sự công bằng giữa người sử dụng đất thuê và người giao đất. Ngoài ra, bổ sung bồi thường cho trường hợp cơ sở tôn giáo, cộng đồng dân cư sử dụng đất mà không phải là đất được giao, cho thuê hoặc có chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác liên quan theo quy định của Luật Đất đai nhưng chưa được cấp. Điều này đánh dấu một sự tiến bộ mới vì trước đây, các trường hợp đất sử dụng bởi cơ sở tôn giáo cho mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, kinh doanh phi nông nghiệp hoặc từ thiện, không phải là đất do nhà nước giao mà có nguồn gốc từ nhận chuyển nhượng, nhận tặng hoặc khai trương trước ngày 1/7/2004, không được bồi thường và hỗ trợ. Điều này gây rối trong quá trình thực hiện.

Theo Điều 79 Luật Đất đai năm 2013, Điều 6 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ và Điều 4 thông tư số 37/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, các trường hợp được hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở như sau:

1. Hộ gia đình cá nhân đang sử dụng đất hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài đang sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất tại Việt Nam, có đủ điều kiện được bồi thường theo quy định tại Điều 75 Luật Đất đai năm 2013 hiện hành, sẽ được bồi thường tái định cư như sau:

– Trong trường hợp người sở hữu đất bị thu hồi không còn đất ở hoặc nhà ở khác trong cùng địa phương, sẽ được bồi thường bằng đất hoặc nhà ở. Nếu không có nhu cầu bồi thường bằng đất hoặc nhà ở, nhà nước sẽ tiến hành bồi thường bằng tiền mặt.

– Trường hợp người sở hữu đất bị thu hồi vẫn còn đất ở hoặc nhà ở trong cùng địa phương, sẽ được bồi thường bằng tiền mặt. Tuy nhiên, nếu địa phương có tích lũy đủ quỹ đất, sẽ xem xét để bồi thường bằng đất ở.

Thứ hai, khi nhà nước thu hồi đất ở gắn liền với nhà, hộ gia đình hoặc cá nhân phải di chuyển đến nơi ở khác nếu không đạt được điều kiện bồi thường đất ở. Trường hợp không có nơi ở khác trên địa bàn, họ có thể mua, thuê nhà ở hoặc nhận đất ở với việc phải thanh toán tiền thuê đất.

Thứ ba, khi nhà nước thu hồi đất ở gắn liền với nhà, hộ gia đình hoặc cá nhân đang sử dụng đất hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài sở hữu quyền sử dụng đất ở, họ có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai. Trong trường hợp hộ gia đình có nhiều thế hệ hoặc nhiều cặp vợ chồng cùng sống trên một thửa đất thu hồi, nếu đủ điều kiện để tách thành từng hộ gia đình riêng theo quy định về cư trú hoặc có nhiều hộ gia đình có chung quyền sử dụng một thửa đất thu hồi, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ xem xét quỹ đất ở và tình thực tế tại địa phương để quyết định mức đất ở, nhà ở tái định cư cho từng hộ gia đình.

Thứ tư, các hộ gia đình hoặc cá nhân sử dụng đất ở trong hành lang an toàn khi xây dựng công trình công cộng có hành lang để bảo vệ an toàn, phải di chuyển chỗ ở mà không có lựa chọn nào khác trong địa phận xã, phường, thị trấn có đất trong hành lang an toàn, sẽ được sắp xếp tái định cư; được bồi thường các chi phí di chuyển và được hỗ trợ ổn định cuộc sống và sản xuất.

Thứ năm, các hộ gia đình hoặc cá nhân sinh sống trong khu vực bị ô nhiễm môi trường có nguy cơ đe dọa tính mạng và sức khỏe con người; đất ở có nguy cơ bị sạt lở, sụt lún hoặc bị ảnh hưởng bởi các tác động thiên tai khác đe dọa tính mạng con người sẽ bị thu hồi đất mà không có tùy chọn đất ở hoặc nhà ở khác trong địa phận xã, phường, thị trấn có đất bị thu hồi, sẽ được bồi thường bằng đất ở hoặc nhà ở.

3. Các hình thức tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở:

Với vấn đề tái định cư, chúng ta cần thực hiện biện pháp này nhằm ổn định và phục hồi cuộc sống cho các hộ gia đình và cá nhân bị thu hồi đất và phải dời về nơi ở mới. Luật Đất đai năm 2013 hiện hành chủ yếu là sự kế thừa của Luật Đất năm 2003 về vấn đề tái định cư. Tái định cư có thể được áp dụng như một biện pháp bồi thường khi nhà nước bồi thường bằng đất ở đối với người bị thu hồi, như được quy định cụ thể tại Điều 79 của Luật Đất đai năm 2013, hoặc được xem là một phần của chính sách hỗ trợ trong trường hợp nhà nước không thể bồi thường thiệt hại bằng đất hoặc người được tái định cư không thuộc diện được bồi thường thiệt hại về đất. Điều 86 của Luật Đất đai năm 2013 quy định chi tiết về việc sắp xếp tái định cư cho những người sở hữu đất ở bị thu hồi phải dời chỗ ở (áp dụng cho hộ gia đình và cá nhân trong nước cũng như người Việt Nam định cư ở nước ngoài).

Dựa trên các quy định trên, có thể thấy rằng Luật Đất đai năm 2013 hiện hành quy định có ba hình thức để thực hiện tái định cư khi nhà nước thu hồi, cụ thể như sau:

Trước hết, có phải trả lại nhà ở. Điều này đề cập đến việc khi người dân bị thu hồi đất, họ phải di chuyển và được bồi thường bằng việc nhận nhà ở mới do chủ đầu tư xây dựng. Lợi ích của phương thức này là người dân sẽ có một nơi ở mới, không cần phải tự xây dựng và không tốn kém thời gian và tiền bạc. Tuy nhiên, phương pháp này cũng có nhược điểm như việc ngôi nhà mới có thể không đáp ứng mong đợi của người dân và chất lượng không được đảm bảo trong nhiều trường hợp.

Tiếp theo, có phải trả tiền để tự lo nơi ở mới. Phương thức tái định cư này áp dụng khi người dân bị thu hồi đất được cấp một diện tích đất cụ thể để tự mình xây dựng nhà ở. Nếu mảnh đất nằm trong khu vực tái định cư, việc xây dựng nhà ở phải tuân thủ thiết kế mẫu để đảm bảo quy hoạch.

Thay vì đưa ra bồi thường bằng nhà ở hoặc đất ở, người có đất bị thu hồi và không muốn tái định cư theo hình thức trên, có thể chọn nhận một khoản tiền để tự mình tìm nơi ở mới phù hợp với mong muốn và điều kiện sống của mình. Tuyệt đối linh hoạt hơn, hình thức tái định cư này cũng giúp giảm tình trạng thiếu nhà ở tái định cư hoặc việc chuyển nhượng nhà ở tái định cư không cần thiết nhưng vẫn xảy ra ở một số địa phương hiện nay.

– Luật Đất đai năm 2013;

– Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết việc bồi thường về đất ở;

– Điều 4 thông tư số 37/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn chi tiết Điều 6 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP.