Tổng hợp các bản án được Toà áp dụng làm án lệ về đất đai

Tổng hợp các bản án được Toà áp dụng làm án lệ về đất đai

Tổng hợp các bản án về đất đai được áp dụng bởi Tòa án, bao gồm những vụ án quan trọng như công nhận hợp đồng thế chấp, thỏa thuận miệng chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp và trường hợp cá nhân không sử dụng đất nhưng để người khác quản lý

1. Tổng hợp các bản án được Tòa áp dụng làm án lệ về đất đai:

: - Bản án 42/2019/DS-PT ngày 28/10/2019 liên quan đến tranh chấp về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất;

- Bản án 154/2020/DS-PT ngày 12/06/2020 liên quan đến tranh chấp về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất;

- Bản án số 115/2018/DS-PT ngày 12/09/2018 liên quan đến tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất;

- Bản án số 180/2020/DS-PT ngày 22/06/2020 liên quan đến tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất;

- Bản án số 13/2018/DS-ST ngày 26/10/2018 liên quan đến tranh chấp hợp đồng vay tài sản;

- Bản án số 147/2020/DS-ST ngày 17/12/2020 liên quan đến tranh chấp hợp đồng tặng quyền sử dụng đất.

- Về tranh chấp hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất, tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, có bản án 375/2019/DS-PT ngày 28/08/2019.

- Về tranh chấp thừa kế tài sản, có bản án 41/2019/DS-PT ngày 12/06/2019.

- Vụ án số 140/2019/DS-PT ngày 31/07/2019 liên quan đến tranh chấp thừa kế tài sản, quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và bồi thường thiệt hại tài sản.

- Vụ án số 41/2020/DS-PT ngày 16/06/2020 liên quan đến yêu cầu hủy hợp đồng tặng quyền sử dụng đất, tranh chấp chia di sản thừa kế.

2. Nội dung chính của một số bản án tiêu biểu về đất đai:

2.1. Án lệ số 11/2017/AL về công nhận hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất mà trên đất có tài sản không thuộc sở hữu của bên thế chấp:

– Tình huống: Một bên đặt thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất mình sở hữu để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự, nhưng trên đất đó lại có tài sản thuộc sở hữu của người khác; hợp đồng phải tuân thủ hình thức và nội dung quy định trong pháp luật.

– Nội dung vụ án:

Trong câu khởi kiện ngày 06-10-2011 và trong các lời khai tại Tòa án, Ngân hàng Thương mại cổ phần A (gọi tắt là Ngân hàng) đã trình bày rằng:

Vào ngày 16-6-2008, Ngân hàng đã ký Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142 với Công ty trách nhiệm hữu hạn B (gọi tắt là Công ty B). Theo hợp đồng, Ngân hàng đã cho Công ty B vay số tiền là 10.000.000.000 đồng và/hoặc tương đương trong ngoại tệ. Mục đích của việc cấp tín dụng này là để bổ sung vốn lưu động để phục vụ cho hoạt động kinh doanh theo ngành nghề đã đăng ký của Công ty B.

Bên B cam kết cung cấp tài sản để đảm bảo cho khoản vay như sau:

- Nhà và đất tại số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội, có số hiệu thửa đất số 43, tờ bản đồ số 51-1-33 (1996), do ông Trần Duyên H và bà Lưu Thị Minh N sở hữu và sử dụng (theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở số 10107490390, cấp ngày 07-12-2000 bởi Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội). Tài sản này đã được ông Trần Duyên H và bà Lưu Thị Minh N thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, có ngày ký kết là 11-6-2008 và được công chứng bởi Phòng công chứng số 6 thành phố Hà Nội ngày 11-6-2008. Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Hà Nội cũng đã cấp giấy chứng nhận đăng ký giao dịch bảo đảm cho tài sản này vào ngày 11-6-2008.

Ngân hàng đã cấp tổng cộng 3.066.191.933 đồng cho Công ty B theo hợp đồng tín dụng và khế ước nhận nợ. Đến ngày 05-10-2011, Công ty B còn nợ gốc và lãi của 03 khế ước là 4.368.570.503 đồng (gồm nợ gốc 2.943.600.000 đồng và nợ lãi 1.424.970.503 đồng).

Ngày 30-10-2009, Ngân hàng và Công ty B tiếp tục ký hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200900583. Theo đó, Ngân hàng cho Công ty B vay 180.000 USD để thanh toán tiền vận chuyển hàng hóa lô hàng xuất khẩu. Thời hạn vay là 09 tháng, lãi suất vay là 5,1% mỗi năm, và lãi suất quá hạn là 150%.

Bên B đã đề xuất tài sản đảm bảo cho khoản vay thứ hai, bao gồm:

- Một lô hàng gồm 19 xe ô tô tải thành phẩm, có trọng tải là 1,75 tấn, hiệu JMP mới 100%. Giá trị của lô hàng này là 2.778.750.000 đồng. Công ty B đã lắp ráp các xe theo phương thức hàng để kho đơn vị và Ngân hàng có Giấy chứng nhận đăng kiểm chất lượng xe xuất xưởng.

- Trong tài khoản tiền gửi kỳ hạn 03 tháng, Ngân hàng đã giải chấp số tiền 1.620.000.000 đồng do Công ty B thực hiện thanh toán nợ vay.

- Ngân hàng đã cấp cho Công ty B một khoản vay 180.000 USD. Công ty B đã trả lại Ngân hàng số tiền nợ gốc là 100.750 USD và số tiền lãi là 1.334,50 USD. Đến ngày 05-10-2011, Công ty B còn nợ gốc là 79.205 USD và nợ lãi là 16.879,69 USD. Tổng số nợ gốc và lãi là 96.120,69 USD.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện của Ngân hàng xác nhận rằng Công ty B đã thanh toán toàn bộ số tiền vay là 180.000 USD và chỉ còn lại số tiền lãi chưa trả là 5.392,81 USD. Tài sản được đặt cọc là 19 xe ô tô, trong đó đã bán được 18 chiếc và chỉ còn lại 01 chiếc. Ngân hàng đề nghị Tòa án tiếp tục xử lý chiếc xe còn lại nhằm thu hồi số tiền vay còn thiếu. Ngân hàng yêu cầu Tòa án buộc:

- Công ty B đã thanh toán số nợ gốc và lãi của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142 bằng VNĐ là 4.368.570.503 đồng.

- Công ty B cũng đã thanh toán số nợ lãi bằng USD của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200900583 là 5.392,81 USD.

Trong trường hợp Công ty B không thanh toán hoặc thanh toán không đủ, Tòa án có thể phát mãi tài sản thế chấp sau đây:

- Sở hữu nhà và quyền sử dụng đất tại số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội, hiện đang thuộc sở hữu và sử dụng của ông Trần Duyên H và bà Lưu Thị Minh N;

– Có một xe ô tô tải đã hoàn thiện, mang trọng tải là 1,75 tấn, thương hiệu JMP, được Công ty B lắp ráp và sản xuất hoàn toàn mới theo Hợp đồng thế chấp tài sản số 219/2009/EIBHBT-CC ngày 29-10-2009.

– Người đại diện bị đơn là ông Trần Lưu H1 – Tổng Giám đốc của Công ty B trình bày: Ông thừa nhận số tiền nợ gốc, lãi và tài sản thế chấp như đã được Ngân hàng trình bày, tuy nhiên, ông đề nghị Ngân hàng cho phép trả nợ theo từng đợt.

Anh Trần Lưu H2, thay mặt cho các con cháu của ông Trần Duyên H và bà Lưu Thị Minh N, đang sống tại địa chỉ 432, trình bày quan điểm của mình.

Theo Bản án kinh doanh và thương mại sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24-9-2013, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã ra quyết định:

– Đồng ý với yêu cầu khởi kiện từ Ngân hàng Thương mại cổ phần A đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn B.

– Công ty trách nhiệm hữu hạn B bị buộc phải thanh toán số tiền còn nợ của Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142 cho Ngân hàng Thương mại cổ phần A, bao gồm: nợ gốc là 2.813.600.000 đồng; nợ lãi trong hạn là 2.080.977.381 đồng; nợ lãi quá hạn tính đến ngày 23-9-2013 là 1.036.575.586 đồng; tiền lãi phạt chậm trả tính đến ngày 23-9-2013 là 123.254.156 đồng; tổng cộng: 6.054.407.123 đồng.

Công ty trách nhiệm hữu hạn B bị buộc phải thanh toán cho Ngân hàng Thương mại cổ phần A số tiền còn nợ trong Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800583, bao gồm số tiền nợ lãi quá hạn là 5.392,81 USD.

Nếu Công ty trách nhiệm hữu hạn B không thanh toán đầy đủ hoặc không trả nợ trong Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142, Ngân hàng Thương mại cổ phần A có quyền yêu cầu Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội xử lý tài sản đảm bảo theo quy định pháp luật, bao gồm quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất tại thửa số 43, tờ bản đồ số 5I-I-33 (1996) theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất số 10107490390 do Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp ngày 07-12-2000 cho ông Trần Duyên H và bà Lưu Thị Minh N tại địa chỉ số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội để thu hồi nợ...

Trong trường hợp Công ty B không trả nợ hoặc không trả đủ số tiền nợ theo Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800583, Ngân hàng Thương mại cổ phần A có quyền yêu cầu Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội thực hiện việc xử lý tài sản đảm bảo là một chiếc xe ô tô tải của Công ty B, trọng tải 1,75 tấn, hãng sản xuất JMP, được lắp ráp theo Hợp đồng thế chấp tài sản số 219/2009/EIBHBT-CC ngày 29-10-2009 nhằm thu hồi số tiền nợ.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm sẽ quyết định về việc thu phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn và những người có quyền và lợi ích liên quan đều có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm.

Trong vụ án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 111/2014/KDTM-PT ngày 07-7-2014, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã quyết định:

Giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm số 59/2012/KDTM-ST ngày 24-9-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội liên quan đến Hợp đồng tín dụng, các khoản tiền vay và khoản tiền mà Công ty trách nhiệm hữu hạn B phải trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần A; hủy bỏ phần quyết định của Bản án sơ thẩm số 59/2013/KDTM-ST ngày 24-9-2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội liên quan đến hợp đồng thế chấp và bảo đảm của một bên thứ ba, cụ thể:

... Hủy bỏ phần quyết định liên quan đến hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của một bên thứ ba (nhà đất số 432, tổ 28, phường E, quận G, thành phố Hà Nội) được ký ngày 11-6-2008 tại Phòng công chứng số 6 thành phố Hà Nội và được đăng ký tài sản đảm bảo tại Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Hà Nội vào ngày 11-6-2008.

Xem xét vụ án và thu thập bằng chứng, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định đưa ra xét xử lại để xác định tài sản hợp pháp của ông Trần Duyên H và bà Lưu Thị Minh N, đồng thời là tài sản thế chấp cho Công ty trách nhiệm hữu hạn B đối với khoản tiền vay tại Ngân hàng Thương mại cổ phần A, theo Hợp đồng tín dụng số 1702-LAV-200800142 ngày 16-6-2008.

Giải pháp pháp lý: Trong trường hợp này, Tòa án phải xác minh tính pháp lý của hợp đồng thế chấp.

2.2. Án lệ số 15/2017/AL về công nhận thỏa thuận miệng của các đương sự trong việc chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp:

– Tình huống án lệ:

Các bên thỏa thuận tự nguyện với nhau về việc chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp trước ngày 15-10-1993; phần đất đã được đăng ký, kê khai diện tích đất đã thay đổi và đã được ghi nhận trong sổ địa chính; cũng như đã canh tác, sử dụng đất một cách ổn định, liên tục và bền vững.

– Tóm tắt nội dung vụ án: 

Nguyên đơn: bà Trịnh Thị C.

Bị đơn: ông Nguyễn Minh T.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: bà Trương Thị H2.

Đơn khởi kiện ngày: 02-5-2006.

Nguyên đơn trình bày: Vào năm 1962, gia đình bà Trịnh Thị C đã được chia lô đất 517m2 thuộc thửa số 28 tờ bản đồ số 4 tại khu vực K, loại đất 5% để canh tác. Mảnh đất này kề bên nhà ông Nguyễn Minh T (bị đơn). Theo bản đồ năm 1987, mảnh đất này thuộc hai thửa 158 và 159. Vào đầu năm 1992, gia đình ông Nguyễn Minh T đã đề nghị bà Trịnh Thị C tạm thời đổi mảnh đất 5% lấy mảnh đất diện tích 540m2 tại khu vực cánh đồng B của gia đình ông để thuận tiện cho việc canh tác. Cả hai bên đã thỏa thuận miệng, không lập giấy tờ, chỉ đổi tạm thời và thông báo trước 1 tuần nếu cần đổi lại. Vào năm 1994, do nhu cầu sản xuất, gia đình bà Trịnh Thị C đã yêu cầu đổi trả lại mảnh đất, nhưng gia đình ông Nguyễn Minh T không đồng ý. Bà Trịnh Thị C đã khiếu nại tại xã và huyện, nhưng không giải quyết được mối tranh chấp. Vì vậy, bà Trịnh Thị C đề nghị Tòa án buộc gia đình ông Nguyễn Minh T phải trả lại mảnh đất cho gia đình bà theo quy định của pháp luật.

Bị đơn trình bày: Theo chính sách khoán 10, HTX Đ đã thực hiện việc giao đất cho các hộ gia đình vào đầu năm 1991. Vào khoảng tháng 2 năm 1992, gia đình ông Nguyễn Minh T và gia đình bà Trịnh Thị C đã đạt được thỏa thuận miệng với nhau về việc đổi đất, như đã được trình bày trong đơn. Lúc đó, bà Trịnh Thị C đã kê khai lượng đất đổi tại khu B, trong khi ông Nguyễn Minh T đã kê khai lượng đất đổi của gia đình bà Trịnh Thị C cùng với diện tích đất mà gia đình ông Nguyễn Minh T đang sử dụng. Vào cuối năm 1994, HTX Đ đã có văn bản giao đất cho các hộ, trong đó ghi rõ rằng gia đình ông Nguyễn Minh T và bà Trịnh Thị C đã đổi đất cho nhau. Gia đình ông Nguyễn Minh T đã canh tác trực tiếp trên mảnh đất này từ năm 1992 đến nay. Do đó, ông Nguyễn Minh T không đồng ý với yêu cầu đòi đổi lại đất từ phía nguyên đơn.

Người có quyền và nghĩa vụ liên quan là bà Trương Thị H2 trình bày: Nguồn gốc của mảnh đất tại khu vực K là của bố mẹ bà và đã được cấp từ năm 1962. Sau khi bố mất, mảnh đất này chuyển sang tên anh trai của bà, ông A. Trong năm 1990 và 1991, đã có việc chia tách 100m2 đất cho bà. Bà Trịnh Thị C không đúng khi đổi toàn bộ mảnh đất này cho ông Nguyễn Minh T, và hiện tại bà đòi yêu cầu được đổi lại đât.

Trong vụ án số 17/2008/DSST, ngày 20-8-2008, Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai đã quyết định:

1. Tuyên bố giao dịch dân sự đổi đất giữa hộ gia đình bà Trịnh Thị C và hộ gia đình ông Nguyễn Minh T tháng 2 năm 1992 là không hợp lệ.

Hộ gia đình ông Nguyễn Minh T bị ép phải hoàn trả đất diện tích 517m2 cho hộ gia đình bà Trịnh Thị C.

Hộ gia đình bà Trịnh Thị C bị buộc phải hoàn trả đất diện tích 540m2 cho hộ gia đình ông Nguyễn Minh T.

2. Bà Trịnh Thị C phải thanh toán tổng cộng 112.817.000 đồng cho công việc tôn tạo đất, bao gồm đào ao, tôn nền và cây trồng trên đất, để trả lại cho ông Nguyễn Minh T.

3. Anh Nguyễn Minh Tr và chị Bùi Thanh H buộc phải dỡ bỏ toàn bộ diện tích nhà cấp 4 xây thô có diện tích 75,28m2, xây trên mảnh đất có tổng diện tích 517m2 thuộc thửa đất số 28 tờ bản đồ số 4, bản đồ địa chính năm 1990, để trả lại cho hộ gia đình bà Trịnh Thị C. Anh Nguyễn Minh Tr và chị Bùi Thanh H không được đền bù diện tích nhà bị dỡ bỏ.

Ông Nguyễn Minh T kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Quyết định của toà: 

Hủy hoàn toàn Bản án dân sự phúc thẩm số 111/2008/DSPT ngày 27-11-2008 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và Bản án dân sự sơ thẩm số 17/2008/DSST ngày 20-8-2008 của Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội về vụ án "Tranh chấp hợp đồng đổi đất" giữa bà Trịnh Thị C và ông Nguyễn Minh T.

Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.

– Giải pháp pháp lý:

Với tình huống này, Tòa án phải chấp nhận thỏa thuận ngoài lời của các bên liên quan nhằm xác định quyền sử dụng diện tích đất nông nghiệp sau khi đã chuyển đổi.

2.3. Án lệ số 33/2020/AL về trường hợp cá nhân được nhà nước giao đất nhưng không sử dụng mà để người khác quản lý, sử dụng ổn định, lâu dài:

– Tình huống án lệ:

Cá nhân được Nhà nước cấp đất nhưng không sử dụng và đã nhờ người khác quản lý và sử dụng đất này trong một khoảng thời gian dài. Trong quá trình sử dụng đất, người đó đã tu bổ đất, xây dựng ngôi nhà ổn định và đăng ký quyền sử dụng đất mà chủ sở hữu đất ban đầu không có ý kiến gì.

– Nội dung vụ án: 

Nguyên đơn: bà  Bùi Thị P, anh Lê Ngọc T1 và chị Lê Thị Thanh X do bà Bùi Thị P là đại diện theo ủy quyền.

Bị đơn: ông Lê Ngọc T2.

Nguyên đơn trình bày: 

Cụ Lê Ngọc U và cụ Bùi Thị T xuất thân từ thôn Đ, xã Đ1, huyện P, tỉnh Hưng Yên. Cả hai đã sống và làm việc tại tỉnh Lạng Sơn. Cụ U và cụ T chỉ có một người con duy nhất là ông Lê Ngọc H, chồng của bà Bùi Thị P. Cụ U sở hữu một miếng đất với diện tích 1.079m2 tại thôn Đ, xã Đ1, huyện P, tỉnh Hưng Yên. Năm 1976, ông H đã xây dựng một ngôi nhà bằng ba giai đoạn, gồm cả mái, một gian gác, bếp, giếng, nhà tắm và nhà vệ sinh trên miếng đất này để cho cụ U và cụ T khi họ nghỉ hưu và quay trở về quê hương. Cụ U và cụ T đã sống tại căn nhà này trong một thời gian rồi sau đó chuyển đến sống trong làng, tại căn nhà và miếng đất mà bố mẹ của cụ T để lại. Năm 1977, cụ Lê Ngọc C1, em trai của cụ U, đã mượn căn nhà và miếng đất này để cho con trai ông Lê Ngọc T2 sử dụng.

Cụ T đã mất vào ngày 22-01-1994 và cụ U mất vào ngày 20-12-1995, cả hai cụ đều không để lại di chúc (họ đều mất tại Lạng Sơn). Vào năm 2008, ông Lê Ngọc T2 đã đến Lạng Sơn và gặp ông H để yêu cầu ông viết một bức giấy ủy quyền để ông T2 nhận tiền bồi thường từ Nhà nước do đất của họ được thu hồi để làm đường 38B. Vào tháng 6-2009, ông H mất mà không để lại di chúc, nhưng đã yêu cầu bạn bà P và con trai về quê yêu cầu trả lại căn nhà và miếng đất cho ông T2.

Bà P và các con yêu cầu gia đình ông T2 trả lại tất cả nhà cửa, đất đai và số tiền đền bù là 398.638.000 đồng khi Nhà nước thu hồi đất vào năm 2008.

Thửa đất gia đình ông đang quản lý và sử dụng được nhờ cụ Lê Ngọc U (anh cụ C1) đứng tên xin hộ từ năm 1974, mặc dù thực tế là bố ông là người trực tiếp nhận đất. Theo bản đồ địa chính xã Đ1 hoàn thành vào tháng 12 năm 1998, thửa đất hộ ông T2 đang quản lý và sử dụng bao gồm 04 thửa: Thửa số 269 (T) có diện tích 574,4m2; thửa số 251 (ao) có diện tích 261,2m2; thửa số 286 (ao) có diện tích 152,9m2; thửa số 301 có diện tích 149,1m2 là đất hành lang đường 38B. Tổng diện tích của các thửa đất và hành lang là 1.177,6m2. Theo sổ mục kê lập vào năm 1998, tại các trang 86, 87 thì các thửa đất trên đều ghi tên chủ sử dụng đất là Lê Ngọc T2.

Trong Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2015/DS-ST ngày 31-3-2015, Tòa án nhân dân huyện Phù Cừ đã đưa ra quyết định:

1. Chúng tôi chấp nhận một phần yêu cầu khởi tố của chị Lê Thị Thanh X và anh Lê Ngọc T. Bà Bùi Thị P không có quyền lợi liên quan đến di sản của cụ Lê Ngọc U và cụ Bùi Thị T.

2. Chúng tôi giao cho ông Lê Ngọc T2 và bà V quản lý và sử dụng một diện tích 990m2, được đo đạc thực tế vào ngày 08-8-2014. Trong diện tích này, có 816m2 là đất ở và 174m2 là đất ao (có sơ đồ được kèm theo). Ông Lê Ngọc T2 và bà Doãn Thị V phải đăng ký quyền sử dụng đất được giao tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tuân thủ quy định của luật đất đai.

Những ngôi nhà, công trình xây dựng, cây cối và hoa màu trên mảnh đất này thuộc sở hữu của ông T2 và bà V.

3. Ông Lê Ngọc T2 và bà Doãn Thị V bị buộc phải thanh toán số tiền 191.864.200 đồng (Một trăm chín mốt triệu tám trăm sáu mươi bốn nghìn hai trăm đồng) cho chị Lê Thị Thanh X và anh Lê Ngọc T1, tương ứng với giá trị di sản được chị X và anh T1 thừa kế từ cụ Lê Ngọc U và cụ Bùi Thị T.

Ngoài ra, Tòa phạm án sơ thẩm cũng quyết định về mức phí và quyền kháng cáo của các bên liên quan.

Ngày 15-4-2015, ông Lê Ngọc T2 đã kháng cáo một phần của bản án.

Quyết định của Tòa án:

1. Huỷ toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 25/2017/DS-PT ngày 28-9-2017 của Tòa án nhân dân tính Hưng Yên về vụ án "kiện đòi tài sản nhà, đất và tiền bồi thường hỗ trợ Khi Nhà nước thu hồi đất" giữa bà Bùi Thị P (hay còn gọi là Bùi Thị Hương P), anh Lê Ngọc T1, chị Lê Thị Thanh X và ông Lê Ngọc T2; đồng thời liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của cụ Vũ Thị S, bà Doãn Thị V, anh Lê Ngọc C2, chị Trần Thị N, chị Lê Thị D1 và chị Lê Thị D2.

2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

– Giải pháp pháp lý:

Trường hợp này, Tòa án không chấp nhận yêu cầu đòi lại quyền sử dụng đất.