1. Thanh tra hành chính là gì?
Theo khoản 2 của Điều 3 Luật Thanh tra 2010, được định nghĩa về thanh tra hành chính như sau:"Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra do cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ và quyền hạn được giao".
Thanh tra hành chính là hoạt động của các cơ quan nhà nước để kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan, tổ chức và cá nhân trực thuộc.
2. Thẩm quyền thanh tra hành chính:
Theo Điều 43 Luật Thanh tra 2010, quyền ra quyết định thanh tra hành chính được quy định.- Hoạt động thanh tra chỉ được tiến hành khi có quyết định của cơ quan thanh tra.
- Thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước sẽ ban hành quyết định thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra để thực hiện. Khi cần thiết, thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cũng có thể ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra.
Thẩm quyền ra quyết định thanh tra hành chính theo kế hoạch là:
- Dựa trên kế hoạch thanh tra, Tổng Thanh tra Chính phủ hoặc Chánh Thanh tra các cấp, các ngành sẽ quyết định tiến hành thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra để thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến thanh tra.
- Để xử lý các vụ việc phức tạp liên quan đến trách nhiệm quản lý của nhiều cơ quan và đơn vị, người đứng đầu như Bộ Trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hay Giám đốc sở, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện sẽ quyết định thanh tra và thành lập Đoàn Thanh tra để tiến hành các nhiệm vụ thanh tra.
- Để xử lý các vụ việc đặc biệt phức tạp, liên quan đến trách nhiệm quản lý của nhiều cấp và ngành, người đứng đầu như Bộ Trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Giám đốc sở, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện sẽ quyết định thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra liên ngành để tiến hành các nhiệm vụ thanh tra.
3. Các nguyên tắc trong thanh tra hành chính:
3.1. Nguyên tắc tuân theo pháp luật; bảo đảm về tính chính xác, khách quan, tính trung thực, công khai, dân chủ và kịp thời :
Thực hiện nguyên tắc tuân theo pháp luật là một yêu cầu quan trọng trong quá trình thanh tra. Mục tiêu của nguyên tắc này là đảm bảo tính pháp chế liên quan đến hoạt động thanh tra, bao gồm lập kế hoạch, thực hiện khảo sát, đưa ra quyết định thanh tra, thực hiện thanh tra và kết thúc thanh tra. Các chủ thể thực hiện hoạt động thanh tra phải tuân theo quy định của pháp luật về thanh tra và các quy định pháp luật liên quan, từ việc thực hiện các quy định về nội dung và quy trình, thời hạn thanh tra cho đến việc tuân thủ các quyền được sử dụng trong hoạt động thanh tra.Về nguyên tắc đảm bảo chính xác, nguyên tắc này áp dụng trong toàn bộ quá trình thanh tra. Trong giai đoạn thực hiện thanh tra, việc áp dụng văn bản pháp luật để đánh giá thông tin và tài liệu thu thập rõ ràng là một biểu hiện sắc nét của nguyên tắc chính xác. Trong giai đoạn kết thúc thanh tra, nguyên tắc này thể hiện ở việc đánh giá tính chính xác của tài liệu, chứng cứ, kết quả giám định, thẩm định và kiểm tra hiện trạng, cũng như tính chính xác của việc áp dụng văn bản pháp luật để so sánh và xử lý. Đảm bảo tính chính xác trong việc đánh giá thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của các đối tượng thanh tra, xác định rõ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và cá nhân vi phạm, và đề xuất biện pháp xử lý trong quá trình lập Báo cáo và Kết luận thanh tra.
Về cơ bản, nguyên tắc khách quan và trung thực đảm bảo rằng việc thanh tra sẽ phản ánh đúng sự thật, không thiên lệch và không làm méo mặt sự thật. Bên cạnh tính chính xác liên quan đến năng lực chuyên môn của hoạt động thanh tra, tính khách quan và trung thực cũng yêu cầu nhân viên thanh tra có quan điểm và thái độ đúng đắn để đánh giá tình hình một cách công tâm và rõ ràng về các vấn đề được thanh tra.
Nguyên tắc khách quan và trung thực còn phản ánh qua việc báo cáo đầy đủ các tài liệu, chứng cứ và thông tin phát hiện trong quá trình thanh tra.
Ở mặt khác, nguyên tắc công khai đòi hỏi rằng trong quá trình thanh tra, Đoàn thanh tra cần đưa ra thông báo đầy đủ về nội dung thanh tra cho đối tượng thanh tra. Các tổ chức và cá nhân có liên quan đến nội dung thanh tra cũng cần công khai danh sách hồ sơ và tài liệu liên quan. Thanh tra cũng cần công khai thông tin khi tiếp xúc với đối tượng thanh tra và các bên liên quan.
Nguyên tắc công khai cũng yêu cầu Đoàn thanh tra thông báo về kết quả thanh tra tới đối tượng thanh tra tại chính địa điểm được thanh tra. Đồng thời, phải công khai đánh giá và kết luận của đoàn sau khi hoàn thành thanh tra để cho đối tượng thanh tra có cơ hội giải trình và bổ sung thông tin, tài liệu và chứng cứ. Kết luận thanh tra cũng phải được công khai theo quy định của Luật thanh tra.
Về nguyên tắc dân chủ: Nguyên tắc dân chủ thể hiện qua mối quan hệ giữa các thành viên Đoàn thanh tra, giữa Đoàn thanh tra và các đối tượng thanh tra, cũng như giữa Đoàn thanh tra và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Các thành viên của Đoàn thanh tra có trách nhiệm thảo luận và đưa ra ý kiến về từng vấn đề cụ thể trong quá trình xây dựng kế hoạch thanh tra, báo cáo kết quả thanh tra và dự thảo kết luận thanh tra. Đối tượng thanh tra, cùng các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, có quyền trình bày quan điểm về đánh giá và kết luận của Đoàn thanh tra, cũng như kết luận của người ra quyết định thanh tra. Mọi ý kiến của đối tượng thanh tra, cũng như các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, phải được thảo luận và xem xét một cách khách quan và dân chủ.
3.2. Nguyên tắc không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, về nội dung, thời gian thanh tra giữa những cơ quan thực hiện các chức năng thanh tra; không làm cản trở các hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra:
Nguyên tắc không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung và thời gian thanh tra giữa các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra có thể hiện chủ yếu trong giai đoạn xây dựng kế hoạch thanh tra và thực hiện khảo sát. Nguyên tắc này chỉ áp dụng cho người ra quyết định thanh tra vì việc xác định phạm vi, đối tượng, nội dung, thời gian và thời hạn thanh tra là quyền của họ và là cơ sở để tiến hành các hoạt động thanh tra. Mục đích là tránh sự chồng chéo và trùng lặp, từ đó giảm lãng phí nguồn lực và tăng hiệu quả công tác thanh tra.Nguyên tắc không gây cản trở đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức và cá nhân làm đối tượng thanh tra được thể hiện trong Luật Thanh tra 2010. Nguyên tắc này phản ánh quan điểm mới về hoạt động thanh tra, đảm bảo không gây rối, cản trở hoặc ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra.
Nguyên tắc không làm cản trở hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức và cá nhân làm đối tượng thanh tra được áp dụng chủ yếu khi làm việc với các đối tượng thanh tra tại các cơ quan và trụ sở của chúng. Tuân thủ tốt các nguyên tắc này không chỉ giúp đảm bảo hoạt động thanh tra được tiến hành một cách nghiêm túc, công khai và minh bạch, mà còn đảm bảo không gây ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức và cá nhân làm đối tượng thanh tra.
4. Thời hạn thanh tra hành chính:
Theo Điều 45 của Luật Thanh tra 2010, về thời hạn thanh tra hành chính được quy định như sau:- Đối với cuộc thanh tra do chánh Thanh tra Chính phủ tiến hành, thời gian không được vượt quá 60 ngày, trừ trường hợp đặc biệt phức tạp có thể kéo dài, nhưng không quá 90 ngày.
- Đối với các cuộc thanh tra đặc biệt phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực và địa phương, thời hạn thanh tra có thể kéo dài, nhưng không quá 150 ngày.
– Thời hạn của cuộc thanh tra do chánh Thanh tra tỉnh và chánh Thanh tra bộ tiến hành không vượt quá 45 ngày. Trong trường hợp phức tạp, thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 70 ngày.
– Đối với cuộc thanh tra do chánh Thanh tra huyện và chánh Thanh tra sở tiến hành, thời hạn không quá 30 ngày. Tuy nhiên, đối với các vùng miền núi, biên giới, hải đảo, các vùng sâu, và vùng xa đi lại khó khăn, thời hạn có thể kéo dài nhưng không quá 45 ngày.
Thời gian thực hiện cuộc thanh tra sẽ được tính từ ngày công bố quyết định thanh tra đến ngày hoàn thành thanh tra tại địa điểm cần thanh tra.
Các luật pháp được áp dụng trong bài viết:
– Luật Thanh tra 2010