Phẫu thuật để điều trị bệnh nhân ung thư đại trực tràng tại Bệnh viện Bạch Mai đã được thực hiện thành công. Ảnh: BVCC.
Đáng chú ý, hiện nay, không chỉ người ở độ tuổi trên 50 mắc ung thư đại tràng mà cả những người trẻ cũng có khả năng mắc căn bệnh này. Đã có nhiều trường hợp bệnh viện trung ương và địa phương ghi nhận những ca mắc ung thư đại trực tràng ở độ tuổi rất trẻ.
BSCKI Nguyễn Văn Dũng, Trưởng khoa Ung bướu 1 (Bệnh viện Bãi Cháy - Quảng Ninh), cho biết rằng bệnh nhân trẻ nhất mà tôi đã mổ là 21 tuổi, và đã phát hiện bệnh giai đoạn muộn khi đến viện, có hiện tượng tắc ruột.
Tỷ lệ mắc ung thư đại trực tràng tại Việt Nam là khoảng 7-8 bệnh nhân/100 nghìn dân. Tại Bệnh viện Bãi Cháy, chúng tôi phẫu thuật hơn 100 bệnh nhân mắc ung thư đại trực tràng mỗi năm.
PGS.TS Vũ Hồng Thăng - Phó Trưởng khoa Nội tiêu hóa (Bệnh viện K) cho biết: Mỗi ngày, trung bình khoảng 5 trường hợp mắc ung thư đại trực tràng được tiếp nhận, đặc biệt có những trường hợp phẫu thuật ung thư đại trực tràng khi mới 12,13 tuổi... Điều này đang cảnh báo về xu hướng trẻ hóa của căn bệnh nguy hiểm này.
Dù bác sĩ đã khẳng định rằng nếu phát hiện ung thư đại trực tràng ở giai đoạn sớm, tỷ lệ chữa khỏi có thể lên tới 90% và có người đã sống khỏe mạnh hơn 20 năm kể từ khi phát hiện bệnh. Tuy nhiên, bệnh nhân thường đến viện khám bệnh khi có các triệu chứng như đi ngoài ra máu, giảm cân... Nhưng lúc này, thường là giai đoạn muộn của bệnh.
Bệnh viện Bạch Mai thông báo với đại diện rằng, họ vừa tiếp nhận một trường hợp bệnh nhân nam T.V.T. (68 tuổi, đến từ Hải Dương) đến để khám do táo bón kéo dài trong một thời gian dài. Các bác sĩ đã quyết định thực hiện nội soi đại trực tràng toàn bộ bằng ống mềm. Kết quả nội soi cho thấy rằng đại tràng sigma bị tổn thương và chiếm khoảng 1/2 chu vi thâm nhiễm cứng. Ngoài ra, kết quả sinh thiết cũng chỉ ra rằng tổn thương trong đại tràng là ung thư biểu mô tuyến, với biệt hóa vừa.
Trong một trường hợp khác, một bệnh nhân nam N.V.M. (72 tuổi, sống tại Nam Định) đã đến bệnh viện để tìm kiếm sự khám phá do gặp phải một số triệu chứng lâm sàng như rối loạn đại tiện. Ban đầu, bệnh nhân chỉ cho rằng mình gặp phải rối loạn tiêu hóa. Sau một khoảng thời gian kéo dài, tình trạng khó chịu đã đẩy người nhà đưa bệnh nhân đến bệnh viện để khám. Sau cuộc khám, các bác sĩ đã phát hiện rằng bệnh nhân bị mắc ung thư đại trực tràng và ung thư dạ dày.
BS Bùi Bích Mai, chuyên gia về tế bào gốc và di truyền ung thư, từ Trung tâm Y học hạt nhân và ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai) cho biết rằng, các yếu tố nguy cơ của ung thư đại trực tràng liên quan đến lối sống, chế độ ăn, cơ địa, môi trường và yếu tố gia đình. Đa số ung thư đại trực tràng không phải do di truyền. Chỉ có 5-10% trong số tất cả các trường hợp ung thư đại trực tràng có liên quan đến di truyền và các đột biến gen. Ngoài ra, khoảng 25-30% ung thư đại trực tràng xuất hiện trong gia đình nên được coi là có tính gia đình, tức là số lượng bệnh nhân trong gia đình nhiều hơn so với dân số chung, mặc dù không có đột biến gen cụ thể được xác định. Trong trường hợp này, nguyên nhân có thể là kết hợp của yếu tố di truyền, lối sống và môi trường sống, gây tăng nguy cơ bị ung thư trong gia đình.
BS Mai khuyến nghị rằng, ung thư đại trực tràng là một căn bệnh nguy hiểm, nhưng vẫn có thể phòng tránh bằng cách thay đổi lối sống lành mạnh, xây dựng chế độ ăn uống hợp lý và thực hiện kiểm tra ung thư đại trực tràng định kỳ. Trong đó, việc thực hiện kiểm tra ung thư đại trực tràng đóng vai trò quan trọng trong việc phòng tránh và phát hiện sớm bệnh. Đối với những người không có nguy cơ cao bị ung thư đại trực tràng, nên bắt đầu kiểm tra từ tuổi 50. Đối với những người có nguy cơ cao, ví dụ như có tiền sử gia đình bị chẩn đoán mắc ung thư đại trực tràng, nên bắt đầu kiểm tra từ tuổi trẻ hơn.
Ung thư đại tràng là một trong 10 loại bệnh ung thư phổ biến ở nam giới tại Việt Nam. Bệnh này thường gặp nhiều ở nam giới và tăng cao theo độ tuổi. Một nghiên cứu tại Bệnh viện K đã chỉ ra rằng ung thư đại tràng thường xảy ra ở những người trên 40 tuổi. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, có xu hướng bệnh "trẻ hóa" với nhiều trường hợp xuất hiện ở độ tuổi từ 18 đến 20 tuổi.