Pháp luật thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng

Pháp luật thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng

Pháp luật về thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và giải phóng mặt bằng là quy phạm pháp luật để điều chỉnh quan hệ trong quá trình Nhà nước thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và giải phóng mặt bằng, nhằm đáp ứng mục tiêu giải phóng mặt bằng hiệu quả

1. Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và giải phóng mặt bằng là gì: 

Thực hiện luật đúng và nghiêm chỉnh là một yêu cầu khách quan trong quản lý Nhà nước và xã hội. Mặc dù đã ban hành nhiều luật, nhưng ít luật được áp dụng vào cuộc sống, điều này cho thấy quản lý Nhà nước không hiệu quả.

Vì vậy, việc xây dựng và thực hiện luật là hai hoạt động có sự tương quan chặt chẽ. Nhà nước sử dụng luật như một công cụ để quản lý xã hội. Để đạt được mục tiêu này, luật phải được thực hiện trong thực tế bằng cách tuân thủ bởi các chủ thể pháp luật.

Trên cơ sở này, thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là quá trình hoạt động nhằm đưa các quy định pháp luật vào cuộc sống, biến chúng thành hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Với sự đa dạng của quy phạm pháp luật, có nhiều hình thức thực hiện chúng. Dựa vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, khoa học pháp lý đã xác định có bốn hình thức thực hiện pháp luật là: Tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Khi nói về thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, điều này tức là các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật này phải tuân thủ đầy đủ các hình thức thực hiện pháp luật nêu trên.

Pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư chỉ có thể hoạt động tốt nhất khi có những quy định phù hợp, nhưng điều quan trọng hơn là bảo đảm các chủ thể pháp luật tự giác thực hiện pháp luật này. Quá trình thực hiện pháp luật nói chung và pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nói riêng sẽ làm cho yêu cầu và quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong đời sống thực tế, điều chỉnh hành vi của các chủ thể. Vì vậy, để đảm bảo thực hiện pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, trước hết cần có sự thống nhất và minh bạch trong pháp luật, và các chủ thể phải tuân thủ và thực hiện nghiêm chỉnh. Việc áp dụng pháp luật khi bồi thường, hỗ trợ phải được thực hiện nhanh chóng, thuận lợi và khoa học; thủ tục áp dụng pháp luật cần đơn giản khi tiến hành bồi thường, hỗ trợ cho các đối tượng. Thực hiện pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là quá trình thống nhất từ tuân thủ, chấp hành, sử dụng và áp dụng pháp luật để tổ chức việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đó là yêu cầu quan trọng của pháp chế XHCN. Các nguyên tắc về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cần được thực thi nghiêm chỉnh và thống nhất, đây là yêu cầu khách quan của quản lý nhà nước và xã hội thông qua pháp luật.

Từ sự phân tích trên, có thể nêu ra khái niệm thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất như sau: “Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là quá trình hoạt động có mục đích của các chủ thể trong quan hệ pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, bảo đảm cho các quy định của pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được thực hiện, bảo đảm đảm chỉ, khách quan, công bằng, công khai và kịp thời.”

2. Đặc điểm thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư: 

Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là các hoạt động được thực hiện bởi các chủ thể liên quan trong quan hệ pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, nhằm đảm bảo sự tuân thủ và thực hiện các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư một cách công bằng, khách quan, công khai và đúng hạn.

2.1. Chủ thể tham gia thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư 

Khi tham gia quan hệ pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, các chủ thể bao gồm: Cơ quan nhà nước, tổ chức phát triển quỹ đất, doanh nghiệp, và người chủ sở hữu đất bị thu hồi.

a) Cơ quan Nhà nước: Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi đất phải tổ chức bồi thường, hỗ trợ và tái định cư theo quy định. Tham gia vào quá trình này là UBND cấp tỉnh và UBND cấp huyện dựa trên tình hình địa phương, Hội đồng bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cấp huyện và Tổ chức phát triển quỹ đất, cùng với UBND cấp huyện và cấp xã tham gia trực tiếp vào Hội đồng bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cấp huyện. Hội đồng này bao gồm Chủ tịch là lãnh đạo UBND cấp huyện; Các thành viên bao gồm Đại diện cơ quan tài chính, Đại diện cơ quan tài nguyên và môi trường, Đại diện chủ đầu tư, Đại diện UBND cấp xã nơi có đất bị thu hồi, Đại diện của những hộ gia đình bị thu hồi đất từ 1 đến 2 người, và một số thành viên khác do Chủ tịch Hội đồng quyết định cho phù hợp với thực tế địa phương.

b) Tổ chức phát triển quỹ đất: Tổ chức phát triển quỹ đất là một tổ chức công được thành lập theo quy định của pháp luật về việc thành lập, tổ chức lại và giải thể tổ chức công lập. Tổ chức này có tư cách pháp nhân, trụ sở riêng, con dấu riêng và được mở tài khoản hoạt động theo quy định của pháp luật. Tổ chức phát triển quỹ đất cũng có chi nhánh tại các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Đối với địa phương đã có Trung tâm phát triển quỹ đất cấp tỉnh và cấp huyện, tổ chức sẽ sắp xếp hợp nhất Trung tâm phát triển quỹ đất cấp tỉnh và cấp huyện hiện có. Trung tâm phát triển quỹ đất có nhiệm vụ tạo lập, phát triển, quản lý và khai thác quỹ đất, tổ chức bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, nhận chuyển nhượng Quyền sử dụng đất đồng thời thực hiện việc đấu giá Quyền sử dụng đất và các dịch vụ khác.

c) Chủ đầu tư: Quy trình thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và giải phóng mặt bằng sẽ được UBND có thẩm quyền tiến hành, trong khi chủ dự án không có quyền thu hồi đất hoặc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho các hộ gia đình và cá nhân có liên quan. Tuy nhiên, chủ đầu tư phải đảm bảo nguồn kinh phí để thực hiện việc thu hồi đất sau khi UBND có thẩm quyền đã ban hành quyết định phê duyệt phương án bồi thường hỗ trợ và quyết định thu hồi đất.

d) Người có đất bị thu hồi: Là cá nhân hoặc hộ gia đình tham gia quan hệ pháp lý liên quan đến bồi thường. Khi tham gia, họ phải thực hiện một số quyền và nghĩa vụ sau:

– Quyền: Được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định pháp luật. Ưu tiên đăng ký nơi ở tái định cư bằng văn bản cho bản thân và các thành viên trong gia đình, cũng như được ưu tiên chuyển trường cho những thành viên trong độ tuổi đi học. Quyền từ chối vào khu tái định cư nếu không đảm bảo các điều kiện đã thông báo và niêm yết công khai. Cung cấp mẫu thiết kế nhà miễn phí và quyền khiếu nại, tố cáo liên quan đến bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.

– Nghĩa vụ: Phải giao lại đất khi Nhà nước có quyết định thu hồi đất. Phải chấp hành chặt chẽ quyết định thu hồi đất và giải phóng mặt bằng. Thực hiện chuyển vào khu tái định cư đúng thời gian quy định để xây dựng nhà và công trình, đồng thời thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Phải đóng tiền mua nhà hoặc tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

Theo quan niệm phổ biến hiện nay, mục đích điều chỉnh pháp luật của quan hệ đất đai là để đảm bảo lợi ích cho các bên tham gia. Trong quan hệ này, khách thể mà các bên hưởng tới đa dạng và phụ thuộc vào từng tình huống cụ thể. Tuy nhiên, những lợi ích này luôn liên quan chặt chẽ đến đất đai và được "đồng nhất" với đất đai. Do đó, việc coi khách thể của quan hệ pháp luật đất đai là đất đai đã được công nhận rộng rãi.

Đối với Nhà nước, khách thể mà Nhà nước hướng tới là tất cả đất quốc gia thuộc sở hữu và quản lý của họ, được chia thành các nhóm đất như đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp và đất chưa sử dụng. Đối với người sử dụng đất và chủ đầu tư, khách thể mà họ hướng tới là từng thửa đất cụ thể và giá bồi thường cho thửa đất đó.

2.2. Hình thức thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư 

Thực thi luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là một lĩnh vực cụ thể của việc thực hiện pháp luật nói chung, vì vậy nó cũng phản ánh đầy đủ các hình thức mà lý thuyết chung về nhà nước và pháp luật đã chỉ ra. Bao gồm: tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.

Đầu tiên, tuân thủ pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư: Đây là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật có liên quan tuân thủ, không tiến hành những hoạt động bị cấm bởi pháp luật. Hình thức này tồn tại trong tất cả các chủ thể pháp luật, bao gồm tất cả công dân, các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội. Thông qua việc tuân thủ pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được áp dụng vào đời sống. Ví dụ, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường phải chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ cho người sở hữu đất thu hồi trong vòng 30 ngày kể từ ngày quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có hiệu lực thi hành.

Thứ hai, tuân theo quy luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư: Đây là một cách thực hiện pháp luật trong đó các thực thể pháp lý đáp ứng nghĩa vụ pháp lý của mình bằng cách hành động tích cực. Khác với việc tuân thủ, chủ thể pháp luật phải kiềm chế và không thực hiện những hành vi bị cấm trong quá trình thu hồi đất. Trái lại, việc thực hiện pháp luật yêu cầu một tinh thần tích cực. Những quy định pháp luật bắt buộc (những quy định nghĩa vụ phải thực hiện hành vi tích cực cụ thể) được áp dụng trong hình thức này. Ví dụ: Trách nhiệm của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có đất bị thu hồi: Khi có quyết định thu hồi đất, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có đất bị thu hồi phải tuân thủ đầy đủ và đúng thời hạn về việc thu hồi đất, công bố diện tích, loại đất, vị trí đất, số lượng tài sản hiện có trên đất, công bố số lượng dân, số lao động, và những thông tin khác liên quan và đề xuất mong muốn tái định cư (nếu có) theo hướng dẫn của tổ chức thực hiện nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng.

Thứ ba, áp dụng pháp luật về bồi thưởng, hỗ trợ, tái định cư: Đây là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền của mình (Thực hiện những hành vi pháp luật được phép). Hình thức này khác với việc tuân thủ pháp luật và thực hiện pháp luật ở chỗ: Chủ thể có quyền hoặc không hoặc không thực hiện quyền được phép bởi pháp luật theo ý chí của mình và không bị ép buộc phải thực hiện. Ví dụ: Người bị thu hồi đất có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo về quá trình bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định của Luật khiếu nại, Luật tố cáo. Hoặc trong trường hợp người bị thu hồi đất phải di chuyển chỗ ở, có quyền chuyển đến hoặc không chuyển đến khu đất, nhà ở tái định cư mà không phụ thuộc vào ý chí của bất kỳ tổ chức, cơ quan hoặc cá nhân nào, họ có quyền tự quyết định dựa trên những điều kiện của chính họ và gia đình cũng như môi trường xã hội của khu tái định cư. Tương tự, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư quy định rằng: Người bị thu hồi đất có quyền yêu cầu hỗ trợ về đào tạo, thay đổi nghề nghiệp.

Thứ tư, thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư: Đây là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó Nhà nước sử dụng các cơ quan hoặc cá nhân, tổ chức được ủy quyền bởi Nhà nước để ban hành các quyết định cá nhân để tạo ra, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ pháp lý. Hình thức này thể hiện ý chí và quyền lực của Nhà nước. Tuy nhiên, những chủ thể được ủy quyền cần tuân thủ đầy đủ các quy định pháp luật về thẩm quyền, quy trình, thủ tục và hình thức để áp dụng các quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể. Ví dụ: Nếu cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi đất không tuân thủ quy định pháp luật, người bị thu hồi đất có quyền khởi kiện để yêu cầu toà án giải quyết và bảo vệ quyền lợi hợp pháp. Khi cá nhân khởi kiện và toà án tiến hành giải quyết, cần tuân thủ đúng quy định của pháp luật chung và Luật tố tụng hành chính nói riêng.

Bốn hình thức thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư gồm: tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, hình thức áp dụng pháp luật khác biệt với các hình thức khác. Sự khác biệt này nằm ở việc luôn luôn có sự tham gia của Nhà nước (qua các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền).

3. Các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và giải phóng mặt bằng: 

3.1. Cơ chế, chính sách của nhà nước về đất đai và về bồi thường, hỗ trợ GPMB:

Từ khi có luật đất đai năm 1993 đến nay, nhà nước đã không ngừng xây dựng hệ thống pháp luật nhằm giải quyết vấn đề vốn đã phức tạp và nhạy cảm của GPMB. Tuy nhiên, việc thực hiện các chính sách về bồi thường và hỗ trợ GPMB là rất khó khăn, đặc biệt là trong bối cảnh các chính sách về đất đai và nhà ở còn tồn tại nhiều bất cập. Để đảm bảo công tác này diễn ra thuận lợi, hệ thống pháp luật cần được thống nhất, đồng bộ và ổn định, cũng như phù hợp với thực tế. Ngược lại, các chính sách về đất đai, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư GPMB không thống nhất sẽ gây khó khăn cho công tác này.

3.2. Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất: 

Quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đai là một trong những công cụ quan trọng trong quản lý đất đai của nhà nước. Chúng giúp đảm bảo sự sử dụng đất đai đúng mục đích, hiệu quả và tiết kiệm, cũng như tăng cường sự kiểm soát của nhà nước đối với đất đai. Quy hoạch và kế hoạch còn giúp người sử dụng đất thực hiện các biện pháp hiệu quả và đạt được kết quả cao khi sử dụng đất. Điều này thể hiện vai trò quan trọng của quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đai trong quản lý đất đai và phát triển kinh tế tổng thể.

Dù Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng việc quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất, công tác này vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế và bất cập. Vấn đề quan trọng trong việc thực hiện công tác này là phải tuân thủ nguyên tắc, tùy thuộc vào thực tế, sử dụng phương pháp khoa học, xác định rõ hướng đi và đảm bảo hiệu quả. Đồng thời, cần tận dụng đất kém hiệu quả, đất chưa sử dụng và đất trống đồi núi để phục vụ xây dựng, đồng thời hạn chế việc sử dụng đất nông nghiệp và đất khu dân cư đông đúc nhằm giảm thiểu các rào cản trong giải quyết vấn đề giải phóng mặt bằng. Thêm vào đó, công tác quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đai cần được công khai rộng rãi để mọi người được biết, từ đó tiến hành giải phóng mặt bằng một cách thuận lợi, nhanh chóng mà không gặp phải những rào cản không đáng có.

3.3. Nhu cầu và kế hoạch xây dựng quỹ nhà, quỹ đất tái định cư: 

Trong thực tế, việc giải phóng mặt bằng ảnh hưởng rất nhiều tới cuộc sống, sản xuất và sinh hoạt của những người bị tác động. Một trong những khó khăn mà họ gặp phải là việc tìm một nơi ổn định để sinh sống. Đôi khi, dù đã được đền bù, nhưng họ vẫn không đủ điều kiện để có một chỗ ở mới ổn định. Vì vậy, việc tổ chức xây dựng các khu tái định cư cho những người bị tác động là một vấn đề cần được xem xét và thực hiện trước tiên để đảm bảo tiến độ và hiệu quả của dự án.

3.4. Công tác định giá đất đền bù thiệt hại GPMB: 

Định giá là việc ước tính giá trị của các quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản cụ thể dưới dạng tiền tệ, cho mục đích đã được xác định.

Định giá có thể hiểu như một phương pháp khoa học hay nghệ thuật trong việc ước tính giá trị của tài sản cho một mục tiêu cụ thể. Trong thực tế, tài sản nhà đất có thể được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau như chỗ ở, kinh doanh hoặc sản xuất. Tuy nhiên, có nhiều lý do thực tế đòi hỏi việc định giá đất. Một trong những lý do quan trọng đó là việc định giá để đền bù cho công trình giao thông và để xác định giá đền bù (giá ép buộc).

Hiện nay, khi số lượng dự án đầu tư xây dựng phát triển hạ tầng ngày càng nhiều và nhiệm vụ đền bù thiệt hại tăng, công tác định giá đất có vị trí vô cùng quan trọng. Việc xác định giá đền bù phù hợp với giá thực tế là rất cần thiết để đảm bảo lợi ích cho người bị thu hồi và cho tiến độ thi công của dự án.

3.5. Sự phát triển của thị trường bất động sản:

Trên thị trường bất động sản phát triển, việc nhanh chóng xác định được hệ số K thông qua giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế sẽ góp phần thúc đẩy tiến độ thực hiện công tác GPMB. Đồng thời, việc xác định tính hợp pháp hay không hợp pháp, thời gian mua bán, chuyển nhượng, giá nhà và đất cũng rất quan trọng. Trong thị trường bất động sản, các quan hệ mua bán nhà đất được công khai và thông tin này luôn được kiểm soát và cập nhật tại cơ quan quản lý thuế.

Giá đất được sử dụng để tính toán bồi thường và hỗ trợ được xác định dựa trên giá đất do UBND thành phố ban hành, theo quy định của Chính phủ, nhân với hệ số điều chỉnh K.

Hệ số điều chỉnh K chủ yếu dựa trên tỷ lệ giá đất tính theo khả năng sinh lợi so với giá đất do UBND thành phố ban hành, hoặc tỷ lệ giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế so với giá đất do UBND thành phố ban hành. Sự chính xác của việc xác định hệ số K phụ thuộc vào sự phát triển của thị trường chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Hiện tại, thị trường chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp và lâm nghiệp, chưa được phát triển. Xác định khả năng sinh lợi trong sản xuất nông nghiệp và lâm nghiệp dựa trên giá trị sản lượng và lợi nhuận gặp nhiều khó khăn phức tạp. Thực tế chủ yếu là việc chuyển đổi và chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp và lâm nghiệp sang mục đích sử dụng khác ở khu vực ven đô diễn ra trái phép. Các giao dịch mua bán nhà ở và quyền sử dụng đất thường xuyên diễn ra, nhưng chủ yếu bằng hình thức "ngầm" nằm ngoài sự kiểm soát của Nhà nước. Do đó, việc thành lập và phát triển thị trường bất động sản, đưa các giao dịch liên quan đến nhà đất (mua bán, cho thuê, chuyển nhượng quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà) đến công chúng và đảm bảo sự kiểm soát và điều tiết của Nhà nước sẽ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định giá đất để tính toán bồi thường và trong việc quản lý Nhà nước về đất đai, đồng thời mang lại lợi ích kinh tế to lớn cho Nhà nước và nhân dân.

3.6. Nhận thức của người dân bị thu hồi đất: 

Văn hóa của người Việt Nam dù ở nông thôn hay thành thị đều mang tính chất của văn hóa làng xã, với điểm nổi bật là tác động của hàng xóm láng giềng đến tâm lý của người dân. Có những tình huống mà hộ gia đình trong diện giải tỏa không đồng ý với mức bồi thường và quyết định khiếu nại để nhận được mức giá cao hơn. Hộ dân hàng xóm người thấy khả năng hộ gia đình này được bồi thường với giá cao, cũng nộp đơn khiếu nại. Kết quả là tất cả các hộ dân trong diện giải tỏa đều khiếu kiện về mức giá bồi thường.

Không chỉ trong những trường hợp cá biệt, những người dân trong diện giải phóng mặt bằng còn có hành vi chây ỳ và không chịu giao mặt bằng với quan niệm "đất càng để lâu càng được đền bù giả cao". Điều này xuất phát từ tâm lý "phép vua còn thua lệ làng" trong suy nghĩ của người dân Việt Nam.

Dù có thể giải quyết bằng cách sử dụng con đường pháp lý và biện pháp cưỡng chế, những rắc rối này tiêu tốn nhiều thời gian và khiến người dân không tin tưởng vào việc thu hồi đất của nhà nước trong tương lai.

Cần nhấn mạnh rằng, nhận thức của nhiều người dân về chính sách bồi thường và hỗ trợ, cũng như lợi ích của việc thu hồi đất đối với quốc gia, địa phương và bản thân họ và gia đình vẫn còn hạn chế, đặc biệt là đối với người dân ở vùng nông thôn. Điều này bắt nguồn từ yếu tố tâm lý được phân tích trước đó, tuy nhiên, nguyên nhân quan trọng ở đây là sự hạn chế trong việc điều chỉnh các chính sách đã được ban hành và thiếu sự tổ chức thông báo và thực thi các chính sách đó trong thực tế.

Ngoài ra, sự thành công của công tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng còn phụ thuộc vào năng lực của đội ngũ cán bộ và nhân viên tham gia, cũng như sự chủ động và nhạy bén của nhà đầu tư. Một số chủ đầu tư không hoạt động một cách tích cực và chủ động hợp tác với chính quyền địa phương, coi việc bồi thường và hỗ trợ giải phóng mặt bằng là trách nhiệm của chính quyền địa phương, điều này làm chậm tiến độ và hiệu quả của công tác này.