Khi đề cập đến vấn đề béo phì, nhiều người thường nghĩ ngay đến chất béo hiện hữu trên cơ thể và hình dáng tròn trịa, mũm mĩm. Tuy nhiên, thực tế là nhiều người bị "béo phì vô hình", lượng mỡ không hiển thị một cách rõ ràng để chúng ta có thể nhìn thấy. Lượng mỡ ẩn này thường rất nguy hiểm, đặc biệt là mỡ tích tụ ở ba vùng này!
1. Mỡ ở cổ, cẩn thận chứng ngưng thở khi ngủ
Theo suy nghĩ chung, những người bị béo phì dường như ngáy nhiều hơn, và thực tế cho thấy điều này có liên quan đến việc có quá nhiều mỡ ở vùng cổ. Khi có quá nhiều mỡ ở vùng cổ, cơ cổ bị giãn ra khi ngủ, mỡ sẽ tụ lại ở khoang họng do tác động của trọng lực, làm cho khoảng đường kính trái phải và đường kính trước sau của khoang họng bị thu hẹp, đặc biệt là khi người bệnh nằm xuống và ngủ.
Sau khi bị hẹp đường hô hấp, không khí không thông qua đường hô hấp một cách trơn tru hoặc xảy ra ma sát và va chạm với các bộ phận bị hẹp, đặc biệt là vòm miệng mềm, tác động này có thể dẫn đến hiện tượng ngáy khi ngủ.
Trường hợp hẹp cục bộ càng nghiêm trọng thì âm thanh đụng chạm càng nhỏ, đôi khi có thể làm ngạt thở, thậm chí phải thức giấc hoặc thay đổi tư thế ngủ thường xuyên... Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng tới giấc ngủ của người bệnh vào ban đêm, gây mất ngủ ban ngày.
Bên cạnh đó, các nghiên cứu quốc tế, ví dụ như các nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Y học Mới, đã phát hiện rằng những người có chu vi cổ tăng lên có nguy cơ mắc chứng rối loạn lipid máu cao hơn đáng kể và có khả năng cao hơn để mắc các vấn đề về tim mạch. Nói một cách khác, cả nam và nữ, nếu chu vi cổ càng lớn thì càng tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch vành.
Vì vậy, trong cuộc sống hàng ngày, nếu bạn nhận ra rằng cổ áo bạn mặc ngày càng chật, bạn không thể thở thoải mái hoặc không cài được nút, thì thường tình trạng này là do tích tụ lớp mỡ dưới da. Nói chung, chu vi cổ của nam giới nên nhỏ hơn 38cm, trong khi chu vi cổ của phụ nữ nên nhỏ hơn 35cm.
2. Chất béo tích tụ trên thành mạch máu sẽ đẩy nhanh quá trình xơ cứng động mạch
Nếu bạn thường xuyên ăn những thực phẩm nhiều dầu mỡ và đường như thịt mỡ, bánh ngọt..., bạn dễ bị béo phì và mỡ tích tụ quá nhiều trong mạch máu. Một hàm lượng chất béo cao và tích tụ trên thành mạch máu có thể gây hiện tượng chyloemia (máu sữa), khiến huyết thanh ban đầu trong và có màu vàng nhạt trở nên đục. Về lâu dài, điều này có thể gây xơ vữa động mạch.
Xơ vữa động mạch là nguyên nhân gây bệnh tim mạch và mạch máu não, đồng thời làm tăng huyết áp, gây bệnh tim mạch vành và đột quỵ. Để điều trị các bệnh về tim mạch và mạch máu não, việc làm sạch mạch máu và ngăn chặn sự lắng đọng chất béo là rất quan trọng.
Đặc biệt, cả những người có bề ngoài không béo cũng cần cảnh giác, vì dù không béo thì vẫn có thể có nhiều mỡ trong cơ thể. Vấn đề chuyển hóa chất béo có thể khiến bạn thuộc nhóm nguy cơ cao mắc các bệnh tim mạch và mạch máu não. Không nên coi thường việc kiểm soát các yếu tố nguy cơ chỉ vì cho rằng mình không béo, và bỏ qua việc kiểm tra sức khỏe có thể làm chậm quá trình phát bệnh. Do đó, dù béo hay gầy, bạn cũng nên thường xuyên kiểm tra sức khỏe và chú ý đến mỡ máu cũng như siêu âm động mạch cảnh.
3. Chất béo ẩn sâu trong nội tạng làm tổn thương não và toàn bộ cơ thể
Trong quá trình giảm cân, thường chỉ chú trọng đến việc giảm "mỡ dưới da" mà bỏ qua việc giảm "mỡ nội tạng". Vì mỡ dưới da rõ ràng và dễ nhìn thấy, nó thường xuất hiện ở khuôn mặt, cánh tay, đùi và những vị trí khác, làm cho người ta chú ý đến vẻ ngoài đẹp.
Một nguyên nhân đáng lo ngại là tồn tại của "mỡ vô hình" - mỡ nội tạng ẩn sâu trong cơ thể. Ngay cả những người có thể trông gầy vẫn có thể mắc phải mỡ nội tạng nhiều, và điều này thường bị bỏ qua bởi mọi người.
Mức độ dày thông thường của mỡ nội tạng có thể được duy trì để bảo vệ các cơ quan nội tạng. Tuy nhiên, khi mỡ nội tạng quá dày, nó có thể gây ra sự bất thường trong chức năng của các cơ quan như tim bị nhiễm mỡ, gan nhiễm mỡ, thận nhiễm mỡ, tuyến tụy bị nhiễm mỡ, từ đó tạo ra các căn bệnh như tiểu đường, tăng huyết áp, kháng insulin, bệnh tim mạch, viêm nhiễm và vấn đề khác.
Mỡ bên trong cơ thể tích tụ quá nhiều sẽ dẫn đến tình trạng "béo phì trung tâm" và "béo bụng", theo kinh nghiệm lâm sàng, hơn 90% người bị "bụng to" thường là bị béo phì bên trong cơ thể.
Các nghiên cứu đã chứng minh rằng, mỗi khi chu vi vòng eo tăng thêm 1,22cm, nguy cơ tử vong do mọi nguyên nhân tăng lên 19%; còn khi chu vi vòng eo tăng thêm 1,32cm, nguy cơ tử vong do tim mạch tăng lên 33%.
Béo bụng có liên quan tích cực đến tỷ lệ mắc bệnh ung thư ở 18 bộ phận trong cơ thể như ung thư dạ dày, ung thư đại trực tràng, ung thư gan và ung thư đường mật.
Một nghiên cứu từ Đại học Công nghệ Nanyang (Singapore) được công bố trên The Lancet cho thấy mức mỡ nội tạng, chỉ số khối cơ thể (BMI) và tỷ lệ vòng eo/hông cao hơn có liên quan đến sự suy giảm nhận thức. Mỗi tăng 0,27kg mỡ nội tạng sẽ đồng nghĩa với việc giảm khả năng nhận thức tương đương với 0,7 năm lão hóa nhận thức. Nói cách khác, việc có bụng to và béo phì sẽ gây hại cho não.
Nguồn và ảnh: Kknews, The Lancet