Bảo vệ lao động nữ trong lĩnh vực tiền lương và BHXH

Bảo vệ lao động nữ trong lĩnh vực tiền lương và BHXH

Đảm bảo bình đẳng giữa lao động nam và nữ, bài viết này tập trung vào bảo vệ quyền lợi của lao động nữ trong lĩnh vực tiền lương và Bảo hiểm xã hội Bài viết cung cấp thông tin về chế độ nghỉ để chăm sóc con ốm, chế độ thai sản và độ tuổi nghỉ hưu, nhằm tuân thủ quy định của Công ước số 100 của ILO và pháp luật lao động Việt Nam

1. Bảo vệ lao động nữ trong lĩnh vực tiền lương:

Lương là số tiền mà người sử dụng lao động (NSDLĐ) trả cho người lao động (NLĐ) dựa trên số lượng, chất lượng, tính chất ngành nghề,... và không được thấp hơn mức lương tối thiểu vùng do Nhà nước quy định.

Hiến pháp năm 2013 đã công nhận sự bình đẳng giữa nam và nữ trong công việc. Khi thực hiện cùng một công việc, nam và nữ sẽ nhận được mức lương như nhau theo Khoản 2 Điều 85: "Người làm công ăn lương được đảm bảo các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi". Luật bình đẳng giới năm 2006 đã concretize điều khoản đó, nói rõ: "Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi được tuyển dụng, được đối xử công bằng tại nơi làm việc về việc làm, tiền công, tiền thưởng, BHXH, điều kiện lao động và các điều kiện làm việc khác". Theo Khoản 3 Điều 90 BLLĐ 2019: "Người sử dụng lao động phải đảm bảo trả lương bình đẳng, không phân biệt giới tính đối với Người lao động thực hiện công việc có giá trị như nhau".

Việc trả lương cho nhân viên được thực hiện theo nguyên tắc bình đẳng giữa nam và nữ khi cùng làm cùng một công việc có giá trị, tuân thủ Công ước số 100 của Tổ chức Công quốc về trả công bình đẳng. Sự bình đẳng trong việc trả lương giữa nam và nữ được coi là một tiến bộ trong pháp luật lao động.

Ngoài ra, theo khoản 4 Điều 137 của Bộ luật lao động năm 2019, trong quá trình làm việc, phụ nữ còn được rút ngắn thời gian làm việc nhưng vẫn được nhận đầy đủ lương theo hợp đồng lao động trong hai trường hợp: phụ nữ trong thời gian có kinh được nghỉ 30 phút mỗi ngày và phụ nữ trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi được nghỉ 60 phút mỗi ngày. Quy định này nhằm giúp phụ nữ vượt qua những hạn chế về giới tính và thực hiện vai trò làm mẹ của mình. Quy định này thường chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp trả lương theo thời gian làm việc. Trong trường hợp doanh nghiệp tính lương theo sản phẩm, tiền lương sẽ được trả theo sản phẩm và do đó nhà quản lý và nhân viên chỉ quan tâm đến số lượng sản phẩm.

2. Trong lĩnh vực Bảo hiểm xã hội: 

Bảo hiểm xã hội là một hệ thống rất quan trọng đối với người lao động nói chung và đặc biệt là phụ nữ lao động. Khi tham gia Bảo hiểm xã hội, phụ nữ lao động sẽ được hưởng đầy đủ các quyền lợi giống như người lao động khác, và ngoài ra còn có một số quyền lợi đặc thù dành riêng cho phụ nữ trong đó. Điều này không chỉ là sự đặc quyền của phụ nữ trong chế độ Bảo hiểm xã hội mà còn để phù hợp với đặc điểm riêng của phụ nữ và tạo điều kiện cho phụ nữ thực hiện vai trò làm mẹ.

2.1. Về chế độ nghỉ để chăm sóc con ốm 

Trong chế độ bảo hiểm xã hội, đây là một trong các quyền lợi được quy định đặc biệt cho phụ nữ lao động khi gặp vấn đề sức khỏe.

Theo Điều 141 của Bộ luật lao động năm 2019, người lao động tham gia Bảo hiểm xã hội có con dưới 07 tuổi bị ốm đau sẽ được nghỉ việc để chăm sóc con và được hưởng bảo hiểm xã hội trong thời gian đó. Quy định này đã thay đổi đối tượng từ "Lao động nữ" thành "người lao động", nhằm thể hiện nguyên tắc về sự bình đẳng giữa người lao động nam và nữ trong quyền và nghĩa vụ chăm sóc con dưới 07 tuổi khi chúng bị ốm đau.

Đồng thời, Điều 27 của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 cũng quy định về thời gian được nghỉ việc chăm sóc con bị ốm đau như sau: Trong một năm, thời gian tối đa được nghỉ việc và hưởng bảo hiểm xã hội là 20 ngày nếu con dưới 03 tuổi, 15 ngày nếu con từ 03 tuổi đến dưới 07 tuổi. Trong trường hợp cùng một thời gian, nếu người lao động nữ có 02 con trở lên dưới 07 tuổi đều bị đau ốm, thời gian được hưởng chế độ khi con ốm đau sẽ được tính bằng thời gian người lao động thực tế nghỉ việc chăm sóc con ốm đau, nhưng không vượt quá thời gian quy định tại Điều 27 của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014.

Còn theo Điều 5 của Thông tư số 59/2015/TT-BLĐTBXH, trong trường hợp cả cha và mẹ đều tham gia bảo hiểm xã hội, chỉ một người trong hai được hưởng chế độ này. Khi người lao động nghỉ việc để chăm sóc con dưới 07 tuổi bị ốm đau, cần có xác nhận từ cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền (như quy định tại Khoản 2 Điều 25 của Luật Bảo hiểm xã hội 2014). Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều trường hợp người lao động không có điều kiện để đưa con đi khám bệnh, chữa bệnh và điều trị, dẫn đến việc họ không được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội. Cũng có những trường hợp, người lao động có con mắc các bệnh như bệnh tim, bệnh lao phổi,... cần nghỉ việc và chăm sóc con cũng như điều trị lâu hơn so với thời gian quy định theo pháp luật. Do đó, họ có nguy cơ phải nghỉ việc hoặc bị nhà nước sự nghiệp lao động cho thôi việc do nghỉ quá thời gian qui định. Vì vậy, pháp luật cần quy định rõ ràng về thời gian đối với trường hợp con bị ốm đau thông thường và trường hợp các bệnh cần điều trị lâu ngày.

Theo Điều 28 Luật BHXH năm 2014: Khi nghỉ việc để chăm sóc con ốm, mức trợ cấp bảo hiểm xã hội sẽ được tính bằng 75% tổng số tiền lương đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền trước khi nghỉ việc.

2.2. Về chế độ thai sản 

Chế độ thai sản là một chính sách của Nhà nước dành cho phụ nữ lao động trong thời gian mang thai và sinh con, nhằm đảm bảo quyền lợi của họ trong việc làm mẹ và tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện vai trò xã hội của mình. Trong thời gian này, lao động nữ phải nghỉ việc và không có thu nhập.

Theo Luật BHXH năm 2014, khi bị sảy thai, nạo, hút thai chết lưu hoặc phá thai do bệnh lý, lao động nữ sẽ được nghỉ việc trong thời gian tối đa 10 ngày nếu thai còn dưới 05 tuần tuổi, 20 ngày nếu thai từ 05 tuần tuổi đến dưới 13 tuần tuổi, 40 ngày nếu thai từ 13 tuần tuổi đến 25 tuần tuổi; và 50 ngày nếu thai từ 25 tuần tuổi trở lên.

Để được hưởng chế độ thai sản, đối tượng lao động nữ phải thỏa mãn điều kiện sau: theo quy định tại Khoản 1,2 và 3 Điều 139 của Luật Lao động 2019. Theo đó, lao động nữ được nghỉ thai sản trước và sau khi sinh là 06 tháng; thời gian nghỉ trước khi sinh không quá 02 tháng. Trường hợp lao động nữ sinh đôi trở lên, mỗi khi có một con mới, người mẹ được nghỉ thêm 01 tháng. Trong khoảng thời gian này, lao động nữ được hưởng chế độ thai sản theo quy định. Ngoài ra, pháp luật lao động cũng cho phép lao động nữ nếu có nhu cầu được quyền nghỉ thêm một thời gian không được hưởng lương sau khi thỏa thuận với người sử dụng lao động. Thời gian nghỉ này không bị giới hạn miễn là có sự đồng ý của người sử dụng lao động. Trong trường hợp lao động nữ đã đóng BHXH trong nhiều năm nhưng khi mang thai lại hết hạn hợp đồng lao động hoặc người sử dụng lao động không có nhu cầu tiếp tục đóng BHXH, và không đóng đủ 06 tháng trước khi sinh theo quy định, họ sẽ không được hưởng chế độ thai sản. Để khắc phục những khó khăn về điều kiện hưởng chế độ thai sản đối với lao động nữ khi phải nghỉ việc để nghỉ dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở khám chữa bệnh, Luật BHXH 2014 đã có quy định rằng đối tượng này cần phải đóng đủ 12 tháng BHXH, trong đó bao gồm ít nhất 3 tháng đóng BHXH trong vòng 12 tháng trước khi sinh, thay vì quy định trước đây là phải đóng đủ 06 tháng BHXH trong vòng 12 tháng trước khi sinh. Quy định này tạo điều kiện cho những người vì nguyên nhân bệnh tật không đảm bảo sức khỏe phải nghỉ việc để nghỉ dưỡng thai vẫn có điều kiện hưởng chế độ thai sản khi sinh con, và đồng thời giới hạn tình trạng lợi dụng chế độ thai sản.

Theo Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, các lao động nam cần đóng Bảo hiểm Xã hội (BHXH) trong ít nhất 06 tháng trong vòng 06 tháng trước khi vợ sinh con để được nghỉ việc và hưởng chế độ thai sản cụ thể theo Điều 31 và 34 của Luật này. Quy định này phù hợp với xu hướng toàn cầu và khuyến khích các người cha thể hiện vai trò của mình trong việc chăm sóc con cái khi vợ sinh con.

Một điểm quan trọng được quy định trong luật lao động là việc lao động nữ được nghỉ để đi khám thai. Điều 141 của Bộ Luật Lao động 2019, Điều 32 và Điểm a Khoản 1 Điều 39 của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 đã đưa ra các quy định cụ thể về nội dung này. Theo đó, lao động nữ được nghỉ việc để đi khám thai 05 lần, mỗi lần 01 ngày; trường hợp cần đi xa để khám bệnh hoặc người mang thai có bệnh lý hoặc thai không bình thường, thì được nghỉ 02 ngày cho mỗi lần khám thai. Thời gian nghỉ việc để khám thai được tính theo ngày làm việc và không tính các ngày nghỉ lễ, nghỉ tết và ngày nghỉ hàng tuần. Quy định này đã đảm bảo quyền lợi cho lao động nữ cao hơn so với khuyến nghị của Tổ chức Y tế Thế giới về số lượng ít nhất 04 lần khám thai, cũng như đảm bảo tuân thủ Công ước số 183 (năm 2000) của Tổ chức Công đoàn Quốc tế (ILO) về Bảo vệ thai sản. Điều này cho thấy sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước trong việc chăm sóc sức khỏe cho người mẹ và thai nhi. Luật Bảo hiểm xã hội cũng đã quy định chế độ bảo hiểm xã hội cho lao động nữ khi họ đi khám thai, sảy thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu, phá thai bệnh lý, triệt sản. Người lao động được hưởng trợ cấp theo quy định của pháp luật về Bảo hiểm xã hội.

Ngoài ra, quy định về lao động nữ được nghỉ thai sản cũng được đề ra trong Luật lao động năm 2019. Theo quy định này, khi mang thai hoặc thực hiện các biện pháp tránh thai, chăm sóc cho con ốm,…lao động nữ được nghỉ trong thời gian nhất định, tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Người sử dụng lao động cần tạo điều kiện và bảo đảm quyền nghỉ ngơi cho lao động nữ. Đối với trường hợp sinh con, lao động nữ được phép nghỉ thai sản trước và sau khi sinh trong 06 tháng, trong đó thời gian nghỉ trước khi sinh không quá 02 tháng. Nếu lao động nữ sinh đôi trở lên, thì mỗi lần sinh một con, mẹ được nghỉ thêm 01 tháng. Trong thời gian nghỉ thai sản, lao động nữ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của BHXH. Sau thời gian nghỉ thai sản theo quy định, nếu lao động nữ có nhu cầu, họ có thể nghỉ thêm một khoảng thời gian không hưởng lương sau khi thỏa thuận với người sử dụng lao động. Thời gian nghỉ này không bị giới hạn miễn là có sự đồng ý của người sử dụng lao động. Quy định này nhằm đảm bảo quyền tự do thỏa thuận của hai bên và cơ sở để lao động nữ đề xuất việc kéo dài thời gian nghỉ sinh khi cần thiết. Quy định này cũng đáp ứng tiêu chuẩn của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về thời gian nghỉ thai sản tối thiểu là 14 tuần (trong đó có 06 tuần bắt buộc sau sinh) theo Công ước 183 của ILO về bảo vệ thai sản, đồng thời phù hợp với khuyến nghị của Tổ chức Y tế Thế giới rằng trẻ sơ sinh cần được nuôi hoàn toàn bằng sữa mẹ ít nhất trong 06 tháng đầu. Ngoài ra, đối với trường hợp lao động nữ đã ổn định về sức khỏe, tâm lý và sẵn sàng trở lại làm việc, họ có thể quay lại làm việc trước khi hết thời gian nghỉ thai sản. Cụ thể, Luật lao động 2019 quy định rằng, lao động nữ có thể trở lại làm việc trước khi hết thời gian nghỉ thai sản, sau khi đã nghỉ ít nhất 04 tháng, nhưng phải thông báo trước, được sự đồng ý của người sử dụng lao động và có xác nhận từ cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về việc đi làm sớm không gây hại cho sức khỏe. Trong trường hợp này, ngoài lương của những ngày làm việc do người sử dụng lao động trả, lao động nữ vẫn được hưởng trợ cấp thai sản theo quy định của BHXH.

Ngoài ra, chế độ thai sản cũng áp dụng cho lao động nữ mang thai hộ, nhờ mang thai hộ hoặc nhận nuôi trẻ sơ sinh dưới 06 tháng tuổi. Cụ thể, Luật quy định rằng: Lao động nữ mang thai hộ khi sinh con được nghỉ việc và hưởng chế độ thai sản cho đến khi giao đứa trẻ cho người mẹ nhờ mang thai hộ, nhưng không quá thời gian nghỉ thai sản đối với các trường hợp sinh con thông thường. Nếu thời gian hưởng chế độ thai sản chưa đủ 60 ngày tính cả ngày nghỉ lễ và ngày nghỉ hàng tuần từ ngày sinh đến thời điểm giao đứa trẻ hoặc đứa trẻ chết, lao động nữ mang thai hộ được nghỉ việc và hưởng chế độ thai sản cho đến khi đủ 60 ngày. Thời gian này bao gồm cả ngày nghỉ lễ, nghỉ tết và ngày nghỉ hàng tuần. Trong khi đó, người mẹ nhờ mang thai hộ đã đóng BHXH bắt buộc vào quỹ ốm đau và thai sản từ ít nhất 6 tháng trở lên trong 12 tháng tính từ thời điểm nhận con thì được hưởng trợ cấp một lần cho mỗi con, bằng 2 lần mức lương cơ sở tại tháng người mẹ hai mang thai hộ sinh con, trong trường hợp người mẹ nhờ mang thai hộ không tham gia BHXH bắt buộc hoặc không đủ điều kiện hưởng, người mẹ nhờ mang thai hộ được nghỉ việc và hưởng chế độ thai sản từ thời điểm nhận con cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi. Trường hợp sinh đôi trở lên, thì mỗi khi có một con, người mẹ nhờ mang thai hộ được nghỉ thêm 01 tháng. Nếu người mẹ nhờ mang thai hộ không nghỉ việc, thì ngoài lương, họ vẫn được hưởng chế độ thai sản theo quy định của BHXH. Điều này nhằm đáp ứng thực tế và đảm bảo quyền lợi toàn diện cho lao động nữ và trẻ em.

2.3. Về độ tuổi nghỉ hưu và chế độ hưu trí

Chế độ hưu trí hàng tháng cho lao động nữ được thực hiện khi đáp ứng các điều kiện về tuổi và thời gian đóng bảo hiểm xã hội. Theo Luật BHXH 2014 (đã sửa đổi bởi điểm a Khoản 1 Điều 219 Bộ luật lao động 2019), thời gian đóng bảo hiểm là 20 năm đối với tất cả trường hợp, và tuổi nghỉ hưu được quy định khác nhau tùy thuộc vào trường hợp cụ thể. Theo Khoản 2 Điều 169 BLLĐ 2019: Tuổi nghỉ hưu của người lao động trong trạng thái bình thường sẽ được điều chỉnh theo lộ trình, đạt mức 62 tuổi đối với lao động nam vào năm 2028 và 60 tuổi đối với lao động nữ vào năm 2035. Cụ thể, bắt đầu từ năm 2021, tuổi nghỉ hưu của lao động trong điều kiện bình thường là 60 tuổi 03 tháng đối với lao động nam và 55 tuổi 04 tháng đối với lao động nữ; sau đó, mỗi năm sẽ tăng thêm 03 tháng đối với lao động nam và 04 tháng đối với lao động nữ. Đối với trường hợp người lao động bị suy giảm khả năng lao động; thực hiện nghề nghiệp đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm việc ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn nhưng không quá 05 tuổi so với quy định cho trường hợp lao động bình thường. Việc điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu của người lao động và thu hẹp khoảng cách tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ là hoàn toàn phù hợp. Thay đổi này sẽ mang lại nhiều hiệu ứng tích cực, góp phần chủ động ứng phó với vấn đề thiếu hụt lao động trong tương lai, đồng thời tăng cơ hội thăng tiến cho phụ nữ, giúp đảm bảo bình đẳng trong việc lựa chọn công việc và nâng cao vị thế của phụ nữ trong xã hội.

Ngoài ra, luật lao động cũng bảo đảm quyền việc làm cho người lao động nói chung và đặc biệt là phụ nữ lao động khi quy định về trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao và một số trường hợp đặc biệt có thể nghỉ hưu muộn hơn, tuy nhiên không quá 05 năm so với quy định đối với điều kiện lao động bình thường.

Về cách tính mức lương hưu hàng tháng, theo quy định tại Điều 74 Luật BHXH năm 2014, đã quy định cách tính lương hưu của lao động nam và nữ khác nhau. Từ ngày 01/01/2018, tỷ lệ lương hưu hàng tháng của lao động nữ là 45% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội tương ứng với 15 năm đóng bảo hiểm xã hội. Sau đó, mỗi năm đóng BHXH thêm 2%, tối đa là 75%. Để được hưởng mức tối đa của chế độ hưu trí, lao động nữ cần đóng bảo hiểm xã hội trong 30 năm, trong khi lao động nam cần đóng trong 35 năm để được hưởng mức 75%. Đây là quy định quan trọng đối với lao động nữ.