Hệ thống quy hoạch và kỳ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất

Hệ thống quy hoạch và kỳ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất

Hệ thống quy hoạch và kỳ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là một hoạt động quan trọng của Nhà nước Việt Nam, giúp quản lý và sử dụng đất đai một cách thống nhất, hiệu quả Quy hoạch sử dụng đất và kế hoạch sử dụng đất đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng của quốc gia, đảm bảo sử dụng hợp lý và tiết kiệm đất đai

1. Khái quát về quy hoạch và kỳ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất:

Quy hoạch sử dụng đất là một khái niệm đã được giải thích trong các tài liệu khoa học pháp lý về đất đai. Theo giáo trình Quy hoạch sử dụng đất của Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội (2005), đây là một hệ thống các biện pháp kinh tế, kỹ thuật và pháp chế của nhà nước nhằm tổ chức sử dụng đất đầy đủ, hợp lý, có hiệu quả cao. Qua việc phân phối và tái phân phối quỹ đất cả nước, quy hoạch sử dụng đất nhằm xem đất như một nguyên liệu sản xuất cùng với các tư liệu sản xuất khác, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội, đồng thời bảo vệ đất và môi trường.

- Giáo trình Luật Đất đai của Trường Đại học Luật Hà Nội đã đề cập đến việc quy hoạch đất đai, nói rõ rằng quy hoạch đất đai là quá trình xác định hoặc điều chỉnh việc xác định đất đai phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương và trong phạm vi cả nước, bao gồm việc tính toán, phân bổ và sử dụng đất đối với số lượng, chất lượng, vị trí và không gian cụ thể.

- Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực Liên hợp quốc (FAO-1993) cũng đã định nghĩa khái niệm quy hoạch sử dụng đất, mô tả nó là một hệ thống đánh giá tiềm năng đất và nước, phương án sử dụng đất và các điều kiện kinh tế - xã hội để lựa chọn và áp dụng phương án sử dụng đất tốt nhất.

Theo điều 3, khoản 2, Luật Đất đai: "Quy hoạch sử dụng đất là việc phân bổ và định rõ vùng đất theo mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường và thích ứng biến đổi khí hậu dựa trên tiềm năng đất và nhu cầu sử dụng đất của các ngành, lĩnh vực tại từng khu vực kinh tế - xã hội và đơn vị hành chính trong một thời gian nhất định."

Đối với kế hoạch sử dụng đất, thuật ngữ này không có sự khác biệt trong quy hoạch sử dụng đất, mang ý nghĩa là việc phân chia quy hoạch sử dụng đất theo thời gian để thực hiện trong kỳ quy hoạch sử dụng đất. Trong định nghĩa này có đề cập đến "kỳ quy hoạch", tuy nhiên thực tế, khái niệm kỳ quy hoạch không được giải thích trong các văn bản pháp lý và tài liệu tác giả đã nghiên cứu. Dưới góc độ cá nhân, tác giả giải thích rằng kỳ quy hoạch là một khoảng thời gian để thực hiện hoạt động quy hoạch sử dụng đất và sau khi kỳ hạn đó kết thúc, quy hoạch có thể được điều chỉnh để phù hợp với các điều kiện chính trị, kinh tế và xã hội.

Thời hạn của quy hoạch sử dụng đất là 10 năm. Tầm nhìn của quy hoạch sử dụng đất quốc gia là từ 30 đến 50 năm và cấp huyện là từ 20 đến 30 năm (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật số 37 có liên quan đến quy hoạch).

Quy hoạch sử dụng đất là việc nhà nước sử dụng hệ thống biện pháp kinh tế, kỹ thuật, và pháp chế để phân bổ và quy định không gian sử dụng đất cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, và thích ứng biến đổi khí hậu trong một khoảng thời gian cụ thể. Đồng thời, thực hiện việc phân bổ và quy định đất đai theo chu kỳ thời gian phù hợp. Quy hoạch sử dụng đất được ghi nhận dưới hình thức văn bản, trong đó quy hoạch sử dụng đất là ý đồ sử dụng đất của nhà nước, còn kế hoạch sử dụng đất là các biện pháp cụ thể được xác định để thực hiện quy hoạch sử dụng đất.

Việc lập quy hoạch sử dụng đất có ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ trong tương lai ngắn hạn mà còn trong tương lai dài hạn. Dựa vào các yếu tố tự nhiên, mục tiêu và nhiệm vụ của phát triển kinh tế-xã hội của mỗi vùng, mỗi địa phương, quy hoạch sử dụng đất được thực hiện nhằm đảm bảo việc sử dụng đất một cách hiệu quả. Điều này đồng thời cũng tạo nền tảng pháp lý ổn định cho công tác quản lý nhà nước về đất đai, đồng thời cung cấp thông tin cần thiết để giao đất và đầu tư vào phát triển sản xuất, đồng thời đảm bảo an ninh lương thực và đáp ứng các nhu cầu của người dân.

2. Cấu trúc hệ thống quy hoạch và kỳ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất:

Theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Đất đai, việc quy định cấu trúc hệ thống quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đã có sự thay đổi. Cụ thể, hệ thống quy hoạch sử dụng đất và hệ thống kế hoạch sử dụng đất được tách thành hai phần.

2.1. Quy hoạch sử dụng đất bao gồm:

(1) Quy hoạch sử dụng đất quốc gia;

(2) Quy hoạch sử dụng đất cấp huyện;

(3) Quy hoạch sử dụng đất quốc phòng;

(4) Quy hoạch sử dụng đất an ninh.

Thay vì xếp "quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh" là một phần trong quy hoạch sử dụng đất, điều luật này quy định: "Đối với cấp tỉnh, phương án phân bổ và khoanh vùng đất đai theo khu chức năng và theo loại đất đến từng đơn vị hành chính cấp huyện là một nội dung của quy hoạch tỉnh." Nếu theo quy định này, thì quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh không bị mất đi mà tồn tại dưới một dạng phân chia quy hoạch khác.

2.2. Kế hoạch sử dụng đất bao gồm:

(1) Kế hoạch sử dụng đất quốc gia;

(2) Kế hoạch sử dụng đất cấp tỉnh;

(3) Kế hoạch sử dụng đất cấp huyện;

(4) Kế hoạch sử dụng đất quốc phòng;

(5) Kế hoạch sử dụng đất an ninh.

Kế hoạch sử dụng đất là biện pháp để thực hiện quy hoạch sử dụng đất, do đó, việc đảm bảo sự tương ứng trong hệ thống là rất quan trọng và hợp lý.

Việc thực hiện quy hoạch theo đơn vị hành chính và mục đích sử dụng đất là cách tổ chức phân chia hiệu quả nhất đối với Việt Nam, đồng thời cung cấp tính tổng quát và cụ thể để tăng tính liên kết vùng, đồng bộ hóa quy hoạch giữa các xã trong huyện. Điều này giúp khắc phục tình trạng trùng lắp trong công tác lập quy hoạch, nâng cao chất lượng của quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất, đồng thời giảm thời gian lập quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất.

Đồng thời, việc phân chia quy hoạch như vậy nhằm tăng cường hiệu quả sử dụng đất theo mục đích, tránh lãng phí và sự chồng chéo, giảm thiểu việc chuyển đổi mục đích tùy ý, hạn chế mất mát đất nông lâm nghiệp quan trọng. Điều này cũng giúp ngăn chặn các vấn đề tiêu cực như tranh chấp và lấn chiếm đất, đảm bảo bền vững sinh thái, và tránh ô nhiễm môi trường gây tổn hại và ảnh hưởng đến sản xuất và phát triển kinh tế xã hội. Trong giai đoạn chuyển dần sang nền kinh tế thị trường, việc này càng trở nên cần thiết để đảm bảo quốc phòng và an ninh ở từng địa phương.

Chính vì sự phân chia quy hoạch này, việc lập quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất cũng có sự khác biệt và được quy định trong các quy định pháp luật, ví dụ như quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia.

Dựa vào lập quy hoạch sử dụng đất quốc gia, bao gồm các căn cứ theo quy định pháp luật về quy hoạch và các căn cứ dưới đây:

- Các yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội;

- Tình trạng hiện tại của việc sử dụng đất, tiềm năng của đất đai và kết quả đạt được từ việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất quốc gia trong quá khứ;

- Nhu cầu sử dụng đất của các ngành, lĩnh vực và của cấp tỉnh.

Căn cứ lập kế hoạch sử dụng đất quốc gia bao gồm:

– Quy hoạch sử dụng đất quốc gia;

– Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 05 năm và hàng năm của cả nước;

– Nhu cầu sử dụng đất 05 năm của các ngành, lĩnh vực, của cấp tỉnh;

- Kết quả thực hiện kế hoạch sử dụng đất quốc gia trong thời gian trước đây;

- Năng lực đầu tư và sự huy động nguồn lực để thực hiện kế hoạch sử dụng đất.

Dưới ảnh hưởng của nhiều yếu tố khó dự đoán trước, theo nhiều khía cạnh khác nhau, việc quy hoạch sử dụng đất chỉ là một trong những giải pháp để biến đổi tình trạng hiện tại sang một trạng thái mới phù hợp hơn cho sự phát triển kinh tế trong một giai đoạn nhất định. Khi xã hội tiến bộ, khoa học kỹ thuật ngày càng tiến bộ, chính sách và tình hình kinh tế thay đổi, các dự kiến quy hoạch sử dụng đất không còn phù hợp. Do đó, việc điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện quy hoạch và điều chỉnh các biện pháp thực hiện là cần thiết.