Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi theo BLHS 2015

Tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi theo BLHS 2015

Vi phạm tội giao cấu với người từ 13-16 tuổi có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 145 BLHS 2015 khi có đủ các dấu hiệu pháp lý liên quan đến khách thể, mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan

1. Khách thể của tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

"Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự đảm bảo và đã bị tội phạm xâm hại. Khách thể của tội phạm là hệ thống các quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại, trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến lợi ích và sự tồn tại của giai cấp thống trị, mà Nhà nước (đại diện cho giai cấp thống trị) đảm bảo bằng các quy phạm hình sự. Đây là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất trong các yếu tố cấu thành tội phạm. Quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại được bảo vệ theo quy định của hình sự - khách thể trong trường hợp này được xác định là tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người và cụ thể hơn, khách thể loại là thuộc nhóm tội phạm xâm hại tình dục trẻ em.

Đối tượng của quan hệ xã hội mà Điều 145 Bộ luật hình sự năm 2015 nhằm đảm bảo là quyền được bảo vệ cho sự phát triển lành mạnh về thể chất và sự ổn định về tâm sinh lý của đối tượng trẻ em trong độ tuổi từ 13 đến dưới 16 tuổi. Ngoài ra, Bộ luật hình sự cũng bảo vệ khỏi những hậu quả xấu có thể phát sinh do hành vi quan hệ tình dục quá sớm, bảo vệ thuần phong mĩ tục và giữ gìn các giá trị đạo đức truyền thống. Nói cách khác, quyền được tôn trọng và bảo vệ về sức khỏe, nhân phẩm, danh dự và sự an toàn tình dục của đối tượng từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi khi thực hiện hành vi giao cấu hoặc hành vi tình dục khác là điều được đảm bảo trong độ tuổi đặc biệt này, khi mà đối tượng đang trải qua nhiều sự biến đổi lớn về mặt tâm sinh lý và sự trưởng thành."

Đối tượng bị tác động của tội phạm là cá nhân hoặc quan hệ xã hội được bảo vệ bị hành vi phạm tội gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại, được xác định là trẻ em có độ tuổi từ 13 đến dưới 16 tuổi. Thực tế cho thấy, độ tuổi này đã có sự thay đổi trong quá trình phát triển của Bộ luật hình sự (BLHS) nhằm đảm bảo tính nghiêm khắc và sự phù hợp của hình phạt đối với hành vi phạm tội. Theo BLHS hiện hành, mọi hành vi liên quan tới tình dục với trẻ em dưới 13 tuổi do người đã trưởng thành thực hiện được coi là tội hiếp dâm trẻ em và sẽ bị xử phạt theo quy định tại Điều 142 BLHS năm 2015. Hình phạt cao nhất có thể là tù chung thân hoặc tử hình. Trường hợp đối tượng bị tác động bởi hành vi giao cấu là người từ 16 tuổi trở lên, không được coi là tội phạm này, bởi vì độ tuổi này được xem là "tuổi giao cấu hợp pháp" do đối tượng không thuộc diện trẻ em.

Điều này cho thấy sự quan trọng của việc xác định độ tuổi đối với cả hai đối tượng trong tội phạm: người phạm tội và đối tượng bị tác động. Đặc biệt, trong những trường hợp khó khăn trong việc xác định độ tuổi (ví dụ: do thiếu kiến thức, việc không đăng ký cho con sau khi sinh do bậc cha mẹ, hoặc trong những trường hợp khác không có giấy tờ tuỳ thân), cần xác định độ tuổi theo hướng dẫn của Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 12/7/2011 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.

- Nếu chỉ biết tháng sinh và năm sinh cụ thể nhưng không xác định được ngày sinh trong tháng đó, ngày sinh sẽ được xác định là ngày mùng một của tháng đó.

- Trong trường hợp chỉ xác định được quý cụ thể trong năm nhưng không xác định được ngày và tháng trong quý đó, ngày sinh sẽ được xác định là ngày mùng một của tháng đầu tiên trong quý đó.

– Nếu biết được nửa đầu hoặc nửa cuối năm nhưng không biết ngày tháng cụ thể, ta sẽ chọn ngày mùng 1 tháng 1 hoặc ngày mùng 1 tháng 7 tương ứng của năm đó làm ngày sinh.

– Nếu chỉ biết được năm sinh nhưng không biết ngày tháng sinh, ta sẽ lấy ngày mùng 1 tháng 1 của năm đó làm ngày sinh.

- Trong trường hợp không thể xác định được năm sinh của nạn nhân là người chưa thành niên, cần tiến hành giám định để xác định tuổi của họ.

- Ngoài ra, cần lưu ý rằng, quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 tại Điều 145 không phân biệt giới tính của trẻ em từ 13 đến dưới 16 tuổi. Tức là, nạn nhân của tội phạm có thể là trẻ em bất kể là nam hay nữ. Điều này cũng phù hợp với các quan điểm hiện đại về việc nam giới có thể là nạn nhân của các tội phạm xâm hại tình dục thay vì chỉ giới hạn ở nữ giới như trước đây. Tuy nhiên, cần nhận thức rằng số lượng nam giới bị xâm hại tình dục ít hơn rất nhiều so với nữ giới. Thêm vào đó, Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định "người từ 13 đến dưới 16 tuổi" thay vì "trẻ em", điều này là sự thay đổi theo hướng đơn giản hoá và phù hợp với các văn bản pháp luật chuyên ngành, đặc biệt là Luật số 25/2004/QH11 về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, trong đó định nghĩa trẻ em là "công dân Việt Nam dưới mười sáu tuổi." (Điều 1) [39]. Do đó, đối tượng của tội phạm này có thể là người có quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài hoặc không có quốc tịch khi tội phạm xảy ra trong phạm vi thẩm quyền xét xử của Việt Nam.

2. Mặt khách quan của tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

Mặt khách quan của tội phạm là việc tổng hợp tất cả những biểu hiện của tội phạm xảy ra và tồn tại trong thế giới bên ngoài, và nó phản ánh tính nguy hiểm của tội phạm. Nó bao gồm các yếu tố bên ngoài như hành vi khách quan, hậu quả, quan hệ nhân quả và các dấu hiệu khác (như thời gian, địa điểm, phương pháp, công cụ phạm tội). Các dấu hiệu như thời gian, địa điểm, hậu quả và quan hệ nhân quả không phải là yêu cầu bắt buộc theo Điều 145 của Bộ luật Hình sự năm 2015, mà chỉ là các yếu tố được sử dụng để quyết định hình phạt. Ví dụ, hậu quả "làm nạn nhân có thai" (điểm d, khoản 2) hoặc hậu quả "tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%" (điểm đ, khoản 2) là những tình tiết quan trọng trong việc xác định hình phạt theo khoản 2 và khoản 3, đối với những trường hợp gây thiệt hại cho sức khỏe của nạn nhân với tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên (điểm a, khoản 3).

Đối với hành vi khách quan, tội danh giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ có thể được xác định khi một người từ đủ 18 tuổi trở lên (đã thành niên) giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi dựa trên sự đồng thuận.

Điều 06/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn việc áp dụng một số quy định trong các điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và việc xét xử vụ án xâm hại tình dục đối với người dưới 18 tuổi. Theo đó, "Hành vi giao cấu quy định tại khoản 1 của Điều 141, khoản 1 của Điều 142, khoản 1 của Điều 143, khoản 1 của Điều 144 và khoản 1 của Điều 145 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là việc bộ phận sinh dục nam xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, với bất kỳ mức độ xâm nhập nào". Các hành vi quan hệ tình dục khác có thể được hiểu là bao gồm những hình thức quan hệ tình dục khác ngoài giao cấu, hành vi của những người cùng giới tính hoặc khác giới tính sử dụng bộ phận sinh dục nam hoặc bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi...), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, miệng, hậu môn của người khác, bao gồm một trong các hành vi như: Đưa bộ phận sinh dục nam xâm nhập vào miệng, hậu môn của người khác; Dùng bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi...), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, hậu môn của người khác.

Cần lưu ý rằng, hành vi giao cấu chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý tự nguyện. Điều này không bắt nguồn từ áp lực tâm lý hoặc các hình thức ép buộc khiến trẻ trở nên phụ thuộc và tạo ra sự đồng ý miễn cưỡng. Những hành vi sử dụng bạo lực hoặc đe dọa bằng bạo lực để vượt qua khả năng chống cự, làm tê liệt ý chí phản kháng và ép buộc nạn nhân phải đồng ý giao cấu không được xem là hành vi khách quan của tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Trên thực tế, những hành vi bạo lực như tiếp xúc trực tiếp với quần áo, bị mắc kẹt tay chân, ... vẫn có thể xảy ra trong quá trình quan hệ tình dục, tuy nhiên mục đích của những hành vi này là đạt được sự hài lòng chứ không phải ép buộc hoặc đạt được sự nhất trí miễn cưỡng. Thông thường, xuất phát từ sự đồng ý từ phía nạn nhân, do đó quá trình quan hệ tình dục sẽ có sự tham gia từ cả hai phía.

Hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác được thực hiện thực tế, hay còn được gọi là xâm nhập sinh học. Cách xâm nhập này có thể là việc sử dụng các bộ phận sinh dục nam, những bộ phận khác trên cơ thể (như ngón tay, ngón chân, lưỡi...), hoặc sử dụng các dụng cụ tình dục để xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, miệng, hậu môn của người khác bất kể giới tính. Ở đây, việc hoàn thành không yêu cầu hành vi quan hệ tình dục kết thúc một cách triệt để trong thực tế về thời gian (như xuất tinh ở nam giới) hoặc xảy ra những hậu quả như rách màng trinh, hoặc thậm chí làm nạn nhân mang thai...

3. Chủ thể của tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

Chủ thể phạm tội là cá nhân có năng lực hình sự, đủ tuổi và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể. Chủ thể phạm tội được xác định theo Điều 8 của Bộ luật Hình sự năm 2015 bao gồm cả cá nhân và tổ chức; tuy nhiên, đối với tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, chủ thể phạm tội được xác định là cá nhân. Chủ thể phạm tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi phải là một cá nhân do các đặc điểm khách quan của hành vi phạm tội này được xác định bởi một người thực hiện với sự cám dỗ tình dục và quan hệ giới tính cụ thể. Điều này cũng được quy định cụ thể tại Điều 76 của Bộ luật Hình sự năm 2015 khi loại trừ tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi khỏi phạm vi các tội danh của tổ chức bị truy tố hình sự. Những cá nhân này cũng phải đáp ứng hai điều kiện gồm: có trách nhiệm hình sự, đủ tuổi theo quy định của pháp luật; và khi giao cấu với trẻ em, người phạm tội phải từ đủ 18 tuổi trở lên (người đã trưởng thành), có khả năng hoặc buộc phải nhận thức rõ ràng về tính nguy hiểm của hành vi đó đối với xã hội, mặc dù có sự cho phép từ phía đối tác còn lại (trong trường hợp này là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi) nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự.

Điều 145 của Bộ luật Hình sự năm 2015 định nghĩa "người nào" là chủ thể giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Điều này phản ánh sự công bằng trong việc xác định giới tính của chủ thể phạm tội; tuy nhiên, thực tế chỉ rất ít trường hợp chủ thể phạm tội này là nữ (kể cả trong trường hợp có đồng phạm).

Do đó, chủ thể giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là một đối tượng cụ thể (một con người cụ thể), có giới tính xác định, đủ 18 tuổi và có đầy đủ khả năng trị nghiệm hình sự tại thời điểm vi phạm.

4. Mặt chủ quan của tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

Tội phạm được coi là một sự kết hợp giữa mặt khách quan và mặt chủ quan.

Phần mặt chủ quan của tội phạm đề cập đến tâm lý và ý chí của cá nhân khi tiến hành hành vi vi phạm pháp luật, bao gồm những dấu hiệu và động cơ xâm phạm, cùng với mục đích của hành vi đó [55, tr. 99]. Mặt chủ quan của tội phạm có thể được xem như một yếu tố tâm lý nội tại của người phạm tội phản ánh cách thái độ của họ đối với những hành vi đầy nguy hiểm cho cộng đồng (tức là tội phạm), bao gồm cả lỗi lầm, động cơ và mục đích nhằm phạm tội. Việc có quan hệ tình dục với người từ 13 đến dưới 16 tuổi, hoặc có hành vi tương tự, được xem là một hành vi có chủ ý. Người phạm tội có trách nhiệm biết rõ rằng đối tác hoặc người liên quan mà họ có quan hệ tình dục hoặc hành vi tương tự chưa đủ tuổi từ 13 đến dưới 16 tuổi.