1. Khung hình phạt thứ nhất: phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
Khoản 1 của Điều 145 BLHS năm 2015 quy định rằng, người từ đủ 18 tuổi trở lên, nếu giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi và không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này, sẽ bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Khoản 1 này áp dụng cho tội phạm có mức độ nguy hiểm thấp hơn so với khoản 2 và khoản 3 và là căn cứ pháp lý trong quá trình điều tra, truy tố, và xét xử.2. Khung hình phạt thứ hai: bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
Trong trường hợp người phạm tội có quan hệ tình dục hoặc giao cấu với trẻ em trong khoảng từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, một số trường hợp sau đây sẽ bị xem là vi phạm và sẽ bị kỷ luật tù từ 03 năm đến 10 năm:– Tình tiết phạm tội lặp lại hai lần trở lên, được nêu tại điểm a của Khoản 2 Điều 145 của Bộ luật Hình sự Ban hành năm 2015.
Phạm tội hai lần trở lên được xem là "trường hợp phạm tội mà trước đó người phạm tội đã phạm tội này ít nhất là một lần và chưa bị xét xử. Hành vi phạm tội trong trường hợp này là việc lặp lại hành vi tội phạm đã được phạm trước đó, do đó có mức độ nguy hiểm cao hơn so với trường hợp thông thường".
Việc nguy hiểm trong trường hợp này được thể hiện qua việc người phạm tội đã thực hiện hành vi tội phạm nhiều lần, có thể làm tổn hại đến một hoặc nhiều đối tượng khác nhau (với mỗi lần vi phạm, một đối tượng khác nhau bị tác động và các hành vi riêng lẻ này đều đáp ứng các yếu tố tạo nên một tội phạm. Các hành vi riêng lẻ này xâm phạm cùng một thể chất và được quy định trong một điều luật cụ thể; bên cạnh đó, các hành vi phạm tội trước đó chưa được truy cứu hình sự bởi một cơ quan có thẩm quyền.
Trong trường hợp cụ thể, khi nhận thức rằng người từ đủ 18 tuổi trở lên đã có quan hệ tình dục hoặc thực hiện hành vi giao cấu với một người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, trước đó đã từng thực hiện hành vi tương tự ít nhất một lần, và chúng tôi xác định chủ thể của hành vi này là người đã phạm tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nhưng vẫn chưa bị xem xét và xử lý bởi cơ quan tư pháp hoặc có thẩm quyền trong một số vụ án. Để đảm bảo yêu cầu này, người thực hiện hành vi giao cấu hoặc quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi phải tối thiểu 18 tuổi trong lần quan hệ trước đó. Ví dụ: nếu người phạm tội đã thực hiện hành vi giao cấu hoặc quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi hai lần, nhưng chỉ đủ 18 tuổi một lần trước đó, thì tình tiết tăng nặng này sẽ không được xem xét. Ngoài ra, tình tiết này cũng không được xem xét đối với người phạm tội giao cấu hoặc quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi nếu họ đã từng phạm một tội khác trước đó. Tình tiết phạm tội "đối với 2 người trở lên" được quy định tại điểm b Khoản 2 Điều 145 Bộ Luật Hình sự năm 2015.
Với ít nhất hai người, hành vi phạm tội được hiểu là hành vi quan hệ tình dục (bao gồm giao cấu và các hành vi quan hệ tình dục khác) với ít nhất hai đối tượng có độ tuổi từ 13 đến dưới 16 trong một lần thực hiện phạm tội. Điều này có thể xác định được bằng các dấu hiệu khác như thời gian và địa điểm. Trường hợp thực hiện giao cấu hoặc các hành vi quan hệ tình dục khác với ít nhất hai người (đối với trẻ em từ 13 đến dưới 16 tuổi) có thể xem xét trong trường hợp: cùng lúc thực hiện giao cấu với một đối tượng và hành vi quan hệ tình dục khác (như sử dụng ngón tay, ngón chân, lưỡi... hoặc dụng cụ tình dục xâm nhập vào các bộ phận sinh dục hoặc hậu môn của phụ nữ) với đối tượng còn lại.
+ Kẻ phạm tội thực hiện hành vi xâm hại bằng cách đưa các bộ phận sinh dục nam vào bộ phận sinh dục nữ trực tiếp với nhiều đối tượng liên tục trong khoảng thời gian và thường là ở cùng địa điểm (ví dụ như trong trường hợp quan hệ tập thể).
- Sự việc "có tính chất loạn luân" được quy định tại điểm c Khoản 2 Điều 145 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tình tiết định khung "có tính chất loạn luân" được hướng dẫn áp dụng theo khoản 1 Điều 4 Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP ngày 01/10/2019 của HĐTP TANDTC trong trường hợp phạm tội liên quan đến quan hệ gia đình gồm:
- Phạm tội đối với người cùng huyết thống, bao gồm anh em ruột chung cha mẹ, anh chị em ruột khác cha mẹ hoặc cùng mẹ khác cha; cựu duỗi chuột, cựu dì, cựu chú, cựu bác, cựu cậu, cựu cháu; con đẻ nuôi, người nuôi; con riêng của vợ, con riêng của chồng, bố dượng, mẹ kế; con dâu, bố chồng, mẹ vợ, con rể.
Như vậy, người vi phạm và nạn nhân (ở độ tuổi từ 13 đến dưới 16 tuổi) được xác định là có mối quan hệ huyết thống và chung dòng máu. Hành vi này không chỉ gây tổn hại đến an toàn tình dục, sức khỏe phát triển bình thường và sự ổn định tâm lý mà còn có tác động nghiêm trọng đến đạo đức xã hội, truyền thống văn hoá, gây rối loạn trong quan hệ gia đình và hủy hoại hạnh phúc. Việc áp dụng các hình phạt nghiêm khắc đối với hành vi quan hệ tình dục với người từ 13 đến dưới 16 tuổi, đặc biệt là trong trường hợp xảy ra loạn luân, là rất cần thiết và là cơ sở phù hợp để đảm bảo sự ổn định của đạo đức xã hội.
- Tình tiết "gây mang bầu cho nạn nhân" nêu tại khoản 2 Điều 145 BLHS năm 2015.
Không thể phủ nhận tác động xã hội nghiêm trọng của việc mang thai ở độ tuổi quá nhỏ. Điều này có tác động trực tiếp đến người mẹ (như phải bỏ học để chăm sóc con) và đứa trẻ (có thể gặp vấn đề về sự phát triển và sức khỏe vì những hạn chế của người mẹ). Ngoài ra, việc mang thai ở độ tuổi này gây áp lực cho gia đình, đặc biệt là khi gia đình có hạn chế về mặt kinh tế. Trẻ em trong độ tuổi từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể có khả năng sinh sản và mang thai, nhưng chức năng sinh sản của họ vẫn chưa hoàn thiện và ổn định. Do đó, việc mang thai ở độ tuổi này không an toàn cho cả người mẹ và thai nhi, và có thể dẫn đến các vấn đề về sức khỏe sinh sản sau này. Vì vậy, quy định về tình tiết "làm nạn nhân có thai" là cần thiết để đảm bảo vai trò bảo vệ của pháp luật nói chung và của Luật Bảo hộ trẻ em nói riêng.
Cần lưu ý, khi xác định tình tiết làm nạn nhân có thai, cần phải xem xét quan hệ nhân quả liên quan đến việc có hành vi giao cấu hoặc có hành vi tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Trong trường hợp nạn nhân thực sự mang thai nhưng mang thai là kết quả của một lần có quan hệ tình dục khác thì tình tiết này cần được xem xét theo từng chủ thể. Hoặc trong trường hợp người phạm tội và nạn nhân có nhiều lần quan hệ (có những lần khi nạn nhân từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi và có những lần sau khi nạn nhân đã đủ 16 tuổi), việc mang thai là kết quả của lần quan hệ khi nạn nhân đã đủ 16 tuổi trở lên, thì không cần xem xét tình tiết này.
Tình tiết gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% đã được quy định rõ trong Điều 145 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Thực tế, tình tiết này cũng được đề cập đến nhiều trong chương xiv về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự của con người. Một số tội còn coi đây là yếu tố quyết định tội phạm tại Điều 135, Điều 136 và Điều 137 của Bộ luật hình sự năm 2015. Quá trình xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể được thực hiện theo quy định của Thông tư số 22/2019/TT-BYT, mà quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể được sử dụng trong các biện pháp giám định pháp y và giám định pháp y tâm thần, do các cơ quan chuyên môn thực hiện.
Tuy nhiên, bắt đầu từ hành vi mà có tính khách quan là quan hệ tình dục hoặc các hành vi tương tự với người từ 13 đến dưới 16 tuổi, với điều kiện là nạn nhân đã đồng ý, tổn hại sức khỏe do việc vi phạm có thể gây ra cho nạn nhân không chỉ liên quan đến các vấn đề thông thường mà còn tập trung vào các cơ quan sinh dục (ví dụ như vú, tử cung, ...) với mức độ tổn thương khác nhau. Ví dụ như tổn thương tử cung có thể được phân thành các mức độ từ thấp đến cao: tổn thương nhưng chưa thủng, không gây di chứng; thủng tử cung, sau đó được phẫu thuật để không để lại di chứng; tổn thương tử cung với các di chứng như dính buồng tử cung; cắt bỏ một phần tử cung; hoặc cắt tử cung hoàn toàn.
- Điều khoản 145, mục "đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh" trong Bộ luật Hình sự năm 2015.
Người phạm tội và nạn nhân trong trường hợp này có một quan hệ mục tiêu, trách nhiệm ràng buộc. Điều này có thể bắt nguồn từ các hoạt động cụ thể trong cuộc sống và tương quan của cả hai, như trong mối quan hệ giáo viên-học sinh hoặc trong quan hệ chữa bệnh, ...
Cần chú ý khi xem xét yếu tố này trong quá trình xác định hình phạt là yếu tố này chỉ xuất hiện khi người phạm tội không chỉ có trách nhiệm như đã nêu, mà còn sử dụng việc chăm sóc, giáo dục hoặc chữa bệnh để lợi dụng mục tiêu giao cấu hoặc thực hiện các hành vi tình dục khác đối với người từ 13 đến dưới 16 tuổi. Trong trường hợp hành vi tình dục không liên quan đến chăm sóc, giáo dục hoặc chữa bệnh, thì không cần xem xét yếu tố này, ví dụ như trong trường hợp giáo viên và học sinh thực sự có mối quan hệ yêu đương.
3. Khung hình phạt thứ hai: bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
Hành vi giao cấu hoặc quan hệ tình dục với trẻ em trong độ tuổi từ 13 đến dưới 16 tuổi sẽ bị xem là vi phạm pháp luật và bị áp dụng mức án từ 7 đến 15 năm tù trong các trường hợp sau đây:- Nếu có yếu tố "Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân, với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên" như quy định tại điểm a Khoản 3 Điều 145 BLHS năm 2015.
Tình tiết này được xác định dựa trên nguyên tắc tương tự như quy định tại điểm đ Khoản 2 và được quy định bởi Thông tư 22/2019/TT-BYT về tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể trong giám định pháp y và giám định pháp y tâm thần, do các cơ quan chuyên môn thực hiện. Tuy nhiên, mức độ thương tổn được định lượng là nghiêm trọng hơn, do đó cần có mức độ nghiêm khắc cao hơn trong quyết định hình phạt để đảm bảo tính phù hợp với mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Khi xem xét áp dụng tình tiết này, cũng cần chú ý đến mối quan hệ nhân quả của thương tổn với hành vi phạm tội, tương tự như ở điểm đ Khoản 2.
- Hành vi "Biết mình mắc HIV nhưng vẫn vi phạm pháp luật" tại điểm b Khoản 3 Điều 145 BLHS năm 2015 là một hành vi cực kỳ nghiêm trọng, bởi vì HIV là một căn bệnh nguy hiểm không có thuốc chữa, gây ảnh hưởng đến sức khỏe, tâm lý và tính mạng của người mắc. Tình tiết này được xác định dựa trên hai căn cứ chính: (1) Ý chí chủ quan của người vi phạm, biết rõ tình trạng sức khỏe nhưng vẫn chủ ý thực hiện hành vi quan hệ tình dục; (2) Kết quả xét nghiệm và đánh giá của cơ quan chuyên môn.
4. Hình phạt bổ sung:
Khoản 4 Điều 145 của Bộ Luật Hình Sự năm 2015 quy định rằng "Người phạm tội có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc cụ thể trong khoảng thời gian từ 01 năm đến 05 năm".Hình phạt bổ sung có thể được hiểu là "Các biện pháp cưỡng chế mạnh mẽ do Nhà nước quy định trong Bộ Luật Hình Sự, được Tòa án áp dụng bổ sung vào hình phạt chính trong bản án kết tội đối với người bị kết án. Điều này dẫn đến việc tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích nhất định của họ nhằm củng cố, tăng cường.
Để nâng cao hiệu quả của hình phạt chính và phòng ngừa tội phạm, việc áp dụng hình phạt bổ sung được coi là cần thiết. Hình phạt bổ sung không được áp dụng độc lập mà là một phần của hình phạt chính, nhằm gia tăng tính hiệu quả của hình phạt chính. Quyết định áp dụng hình phạt bổ sung hay không sẽ tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể.
Hình phạt bổ sung có thể bao gồm việc cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc cụ thể sau khi người phạm tội đã hoàn thành hình phạt chính. Thời gian cấm có thể kéo dài từ 01 năm đến 05 năm, tính từ ngày kết thúc hình phạt tù hoặc từ ngày bản án có hiệu lực theo luật nếu hình phạt chính là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc trong trường hợp người bị kết án được hưởng án treo (Xem Điều 41 Bộ luật Hình sự năm 2015).