Phân tích nguyên nhân tại sao Thủy điện Hòa Bình chỉ còn cầm chừng phát điện

Phân tích nguyên nhân tại sao Thủy điện Hòa Bình chỉ còn cầm chừng phát điện

Hồ thủy điện Hòa Bình có khả năng phát điện lớn nhưng cần cẩn trọng với việc khai thác tối đa công suất liên tục để tránh trường hợp hồ về mực nước chết và không thể hoạt động Giám đốc đã phân tích nguyên nhân và đưa ra các giải pháp để đảm bảo an toàn và hiệu quả trong vận hành hồ thủy điện

Nhà máy thủy điện Hòa Bình đang gặp khó khăn trong việc sản xuất điện do nguồn nước hiện chỉ còn ở mức cầm chừng. Theo Giám đốc Nhà máy, ông Phạm Văn Vương, khi mực nước chết, ngành thủy điện khuyến cáo không nên khai thác để tránh gây thiệt hại cho các tổ máy. Trong tình huống bắt buộc, nhà máy phải chạy thôi nhưng nói chung, không nên khai thác khi đã về mức nước chết. Ngoài việc đảm bảo cung cấp điện cho người tiêu dùng, nhiệm vụ của nhà máy còn là bảo đảm an toàn hệ thống và con người, đồng thời đảm bảo cấp nước cho hạ du vẫn được đảm bảo.

Theo ông Trần Xuân Thùy - Phó trưởng phòng Hành chính Lao động, Nhà máy thủy điện Hòa Bình, trong những ngày gần đây, mặc dù đã có mưa nhưng lượng nước đổ về không nhiều, lưu lượng nước chỉ đạt 103m, trong khi quy định mực nước tối thiểu là 81,9m, do đó công suất phát điện vẫn còn thấp. Tuy nhiên, nhà máy vẫn đang theo dõi và báo cáo thường xuyên cho Tập đoàn EVN để có kế hoạch sản xuất điện phù hợp.

Phân tích nguyên nhân tại sao Thủy điện Hòa Bình chỉ còn cầm chừng phát điện

Tại nhà máy thủy điện Hòa Bình, lượng nước còn lại chỉ cách mực nước chết 22m. Với sản lượng 1.920 MW, nhà máy này đóng vai trò quan trọng trong ngành năng lượng của Việt Nam. Tuy nhiên, tình hình thủy văn tuyến sông Đà đang bất lợi cho phát điện và chỉ có thể phát 3,5 tỷ kWh bằng 37% kế hoạch vào năm 2023. Vì vậy, kế hoạch sản lượng điện trong tương lai sẽ rất khó khăn.

Vào cuối tháng 5 và đầu tháng 6, công ty phải khai thác nước ở mức rất cao, gần như tối đa, dẫn đến lượng nước trong hồ giảm rất nhanh. Các hồ tại khu vực phía Bắc và sông Đà đều đạt mức nước chết và không thể khai thác nữa. Công ty buộc phải duy trì hoạt động với lượng nước còn lại trong hồ, chỉ còn 102m, thấp hơn mực nước dâng thông thường 15m và cách mực nước chết chỉ còn 22m. Mặc dù đã có mưa trong những ngày qua, lượng nước về hồ vẫn rất ít, chỉ 40m3/s.

Theo báo cáo của Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp (Cục ATMT), hiện nay lượng nước đổ về các hồ trên toàn quốc đã tăng đáng kể so với ngày hôm qua. Tuy nhiên, các hồ ở khu vực Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Đông Nam Bộ vẫn đang gặp khó khăn với mức nước thấp, gần như sát ngưỡng mực nước chết. Trong khi đó, tổng lưu lượng nước đổ về các hồ thủy điện lớn tại miền Bắc đã tăng 28% so với ngày 11/6. Đối với khu vực duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, mực nước ở các hồ dao động nhẹ so với hôm qua và đang ở trong phạm vi tối thiểu quy định theo quy trình vận hành.

Trong việc điều tiết nước, lượng nước trở về hồ chủ yếu đảm bảo dòng chảy ổn định và đáp ứng được nhu cầu phát điện của các nhà máy. Tuy nhiên, do lượng nước hiện tại còn thấp nên các nhà máy phải hoạt động ở công suất thấp để tránh gây hư hỏng cho tổ máy và đảm bảo an toàn trong khi vận hành. Hiện tại, việc phát điện theo quy trình vận hành hồ chứa đang gặp nhiều khó khăn và khó có thể đáp ứng được nhu cầu phát điện. Trong 24 giờ tới, dự báo lượng nước về các hồ sẽ tiếp tục tăng nhẹ, tuy nhiên tình hình vẫn khó khăn dù đã qua mức nước chết. Tổng công suất không huy động được từ các hồ Sơn La, Lai Châu, Bản Chát, Huội Quảng, Tuyên Quang, Thác Bà, Hủa Na, Bản Vẽ... gần 5.000 MW.

Theo ông Trần Việt Hòa, Cục trưởng Cục điều tiết điện lực, hiện nay tổng công suất nguồn lớn nhất ở miền Bắc đã đạt 18.580 MW, trong đó công suất lớn nhất của các nhà máy thủy điện là 3.800 MW. Tuy nhiên, các chuyên gia cảnh báo rằng, mặc dù tình hình thủy văn có thuận lợi hơn nhưng nắng nóng vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, dẫn đến nhu cầu sử dụng điện cao. Do đó, các nhà máy thủy điện cần vận hành linh hoạt và tăng cường tích nước các hồ thủy điện. Đồng thời, người dân và doanh nghiệp cần nâng cao ý thức trách nhiệm và đẩy mạnh chương trình tiết kiệm điện để tránh áp lực cho hệ thống điện quốc gia, đặc biệt là ở miền Bắc.