Giải thưởng đặc biệt dành cho nhà khoa học nữ VinFuture 2023 vinh danh GS Susan Solomon, nhà khoa học người Mỹ, vì việc phát hiện ra cơ chế suy giảm tầng ozon ở Nam Cực, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy Nghị định thư Montreal. Đây là một đóng góp quan trọng giúp giảm lượng lớn khí thải nhà kính trên khắp thế giới.
GS Susan Solomon được vinh danh là nhà khoa học nữ của VinFuture 2023.
Trong buổi lễ trao giải vào tối ngày 20/12, GS Susan Solomon đã chia sẻ: "Đây thực sự là một vinh dự lớn đối với tôi. Tôi rất may mắn khi đã có cơ hội nghiên cứu về lỗ thủng tầng ozon từ khi tôi 29 tuổi, và hiện tại tôi có dịp đến đây để chia sẻ với mọi người về sự phục hồi của tầng ozon. Điều này là kết quả của sự đoàn kết của tất cả mọi người trên toàn thế giới trong việc kiểm soát các chất gây hại cho tầng ozon.
Trong quá trình nghiên cứu, tôi rất may mắn khi được hỗ trợ bởi sinh viên, đồng nghiệp và các giáo sư. Đặc biệt, tôi muốn kể đến sự ủng hộ của chồng và gia đình..."
Người phụ nữ tiên phong tìm ra "thủ phạm" gây hại tầng ozon
Tuy nhiên, ít ai biết được rằng để có những thành tựu được ghi nhận như ngày nay, GS Susan Solomon đã phải trải qua rất nhiều khó khăn và thách thức. Ngọn nguồn mọi việc bắt nguồn từ năm 1986, khi bà trở thành người phụ nữ duy nhất lãnh đạo nhóm nhà khoa học tìm đến Nam Cực.
Năm 1986 và 1987, GS Susan Solomon dẫn đầu một nhóm 16 nhà khoa học từ NOAA, NASA và hai trường ĐH khác nhau đến Nam Cực để nghiên cứu về cơ chế hình thành lỗ thủng tầng ozon. Khi đó, ông chỉ mới 29 tuổi và là người phụ nữ duy nhất trong nhóm.
"Tôi được chọn để dẫn đầu nhóm vì tôi giỏi giao tiếp với báo chí (cười – PV). Tôi giải thích một cách dễ hiểu. Để tổ chức chuyến đi, chúng tôi cần phải báo cáo thông tin thường xuyên cho Quỹ Khoa học Quốc gia. Có lẽ tôi được chọn vì cách giải thích rõ ràng của tôi", Gs Solomon nhớ lại.
Trong cuộc hành trình tới Nam Cực đầy lạnh giá, GS Susan Solomon và đồng nghiệp đã thực hiện việc đo đạc kích thước lỗ thủng và điều tra nguyên nhân tại sao nó lại lớn như vậy. Kết quả cho thấy nguyên nhân chính là do hoạt động của con người và việc sản xuất hóa chất chlorofluorocarbons (CFC). Trước đây, CFC đã được sử dụng rộng rãi trong tủ lạnh, điều hòa không khí, thậm chí cả trong sản phẩm như bình xịt tóc và kem chống nắng.
Không chỉ dừng lại ở việc phát hiện lỗ thủng, GS Susan Solomon còn áp dụng kiến thức hóa học để giải thích về quá trình hình thành lỗ thủng này.
Khi đến Nam Cực để thực hiện việc đo đạc, tôi đã phát hiện tỷ lệ các chất hóa học bất thường, cho thấy tác động của con người đối với việc làm thủng tầng ozon", GS Solomon chia sẻ.
Trước chuyến đi thực nghiệm này, các nước trên thế giới vẫn lo lắng về việc sụt giảm tầng ozon có thể do tự nhiên hoặc do con người. Vào những năm 1970, hai nhà khoa học, GS Mario Molina và Sherwood Rowland đã đưa ra giả thuyết về tác động của CFC lên tầng ozon. Các giả thuyết này đã thu hút sự quan tâm và nghiên cứu rộng rãi trong nhiều năm.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy mức độ phá hủy là nghiêm trọng hơn nhiều so với kết luận của hai nhà khoa học.
"Khi chúng tôi đưa ra kết luận, cả thế giới bị sốc và cảm thấy lo lắng. Nhiều quốc gia trên thế giới đã ký thỏa thuận chung để loại bỏ dần việc sản xuất chất CFC. Bản thân các ngành sản xuất đều biết dù sớm hay muộn thì họ cũng phải thay đổi bằng cách tìm hóa chất thay thế cho CFC. Đây là bài học thành công khi từ nghiên cứu khoa học kết hợp với thay đổi chính sách nhằm thay đổi hành vi của con người", GS Solomon kể.
Những nghiên cứu thực nghiệm của GS Solomon đã đóng góp vào việc ban hành Nghị định thư Montreal về chất làm suy giảm tầng ozon vào ngày 16/9/1987, có hiệu lực từ ngày 1/1/1989. Hiệp ước quốc tế này nhằm bảo vệ tầng ozon bằng cách ngừng sản xuất các chất gây suy giảm ozon.
"Việc ngừng sản xuất chất CFC là sự đồng lòng của các quốc gia. Trước Nghị định thư này, người dân Mỹ cũng đã tình nguyện không sử dụng các sản phẩm chứa CFC như bình xịt tóc và kem chống nắng", GS Solomon chia sẻ.
Phát hiện của nhà khoa học nữ này đã tạo ra cú sốc lớn trong cộng đồng quốc tế.
Cú sốc với cộng đồng khoa học
Nhà khoa học này tỏ ra rất tự hào về thành tựu của mình trong việc nghiên cứu về môi trường, cho rằng đó là một phần quan trọng trong lịch sử của loài người, khi chúng ta không chỉ gây ra vấn đề, mà còn tìm ra giải pháp cho nó sau hơn 40 năm.
Theo GS Susan Solomon, phát hiện đầu tiên của bà là giải thích cơ chế tại sao lỗ thủng tầng ozon ở Nam Cực lại xảy ra. Hiện tượng này liên quan đến lĩnh vực hóa học và đã gây sốc trong cộng đồng khoa học. Gần đây là sự kiện mà không hề có phản ứng bề mặt tại tầng bình lưu.
"Khi tôi đưa ra điều này lần đầu tiên, một số đồng nghiệp đã bỏ đi. Tuy nhiên, tôi không bận tâm vì tôi thực sự biết rằng mình đúng. Tôi hiểu vì sao mọi người lại cảm thấy như vậy. Khi lỗ thủng tầng ozon được phát hiện, tôi còn rất trẻ. Tôi nghĩ đây là một cơ hội tuyệt vời khi chúng ta còn trẻ, bởi khi đó đầu óc chúng ta chưa có nhiều ý tưởng", GS Solomon chia sẻ.
Giáo sư Solomon chia sẻ rằng bài học quan trọng mà ông rút ra là khả năng lắng nghe quan điểm của người khác nhưng cũng không nên hoàn toàn phụ thuộc vào họ. Đôi khi chúng ta cần lắng nghe chính bản thân mình và kiên định với quan điểm cá nhân.
Để vượt qua khó khăn và áp lực trong công việc, GS Solomon đã cho rằng "Tôi luôn cố gắng giữ bình tĩnh và duy trì tính hài hước. Thay vì tỏ ra tức giận, tôi luôn khuyến khích sinh viên của mình, đặc biệt là những người phụ nữ muốn trở thành nhà khoa học, đùa vui và cố gắng làm giảm căng thẳng. Quan điểm của những người xung quanh rất quan trọng và giúp chúng ta bình tĩnh hơn trong những tình huống khó khăn".
Ngoài ra, sự động lực để giúp GS Solomon kiên định và phát triển con đường khoa học của mình đến từ việc có một người bạn đời luôn hết mình ủng hộ.
"Tôi thực sự may mắn khi tìm được một người bạn đời tuyệt vời. Chúng tôi đã bên nhau suốt 35 năm và mối quan hệ vẫn rất tuyệt vời. Do đó, tôi muốn khuyên các nhà khoa học nữ rằng nếu muốn theo đuổi con đường này, hãy đảm bảo rằng người bạn đời mà chúng ta chọn luôn ủng hộ và hỗ trợ chúng ta", GS Solomon nói.
Việt Nam cần làm gì cho tầng ozon?
GS Susan Solomon cho biết rằng Việt Nam có khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu.
Theo GS Solomon, trước hết, chúng ta cần nhận thức sâu sắc về mức độ nguy cơ của tầng ozone, đặc biệt là trong thế kỷ 21. Điều này đã được thực hiện thành công. Chúng ta cần phải nỗ lực tạo ra các cơ chế và giải pháp có tính tổ chức để giải quyết vấn đề này. Ví dụ, chúng ta có thể áp dụng kiến thức về tầng ozone để giải quyết vấn đề ô nhiễm và biến đổi khí hậu tại Việt Nam.
Ở Việt Nam, chúng ta cần chú trọng vào việc kêu gọi mọi người cùng tham gia vào quá trình tạo ra sự thay đổi. Chúng ta cần phải tạo ra sự thay đổi dựa trên sự hợp tác cộng đồng, và giúp mọi người hiểu rõ hơn về vấn đề này.
Tuy nhiên, chỉ có dựa vào khoa học, bằng chứng và nghiên cứu khoa học là chưa đủ. Thay vào đó, chúng ta cần hỗ trợ những nhà hoạch định chính sách trong việc xây dựng những chính sách tốt hơn và kêu gọi mọi người tham gia bảo vệ môi trường.
Việt Nam là một quốc gia dễ bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu. Tuy vậy, GS Solomon tin rằng Việt Nam có thể thích ứng với biến đổi khí hậu thông qua các biện pháp như xây dựng hệ thống an toàn phòng chống lũ, bảo vệ môi trường và phát triển giống lúa chịu bão lũ, hạn hán và xâm nhập mặn.
Ngoài ra, Việt Nam cũng có tiềm năng phát triển năng lượng mặt trời và năng lượng gió. GS Solomon kỳ vọng rằng hiệp định Paris sẽ tạo điều kiện thuận lợi để Việt Nam đầu tư và phát triển hai nguồn năng lượng này. Đồng thời, Việt Nam cũng cần tích cực giảm thiểu sử dụng than, và lên kế hoạch sử dụng nguồn năng lượng mới trong tương lai. Điều này không chỉ là thách thức mà còn mở ra nhiều cơ hội để quốc gia phát triển bền vững.
"Công nghệ hiện đại đã sẵn có, điều quan trọng là chúng ta đầu tư như thế nào. Đừng do dự hay chờ đợi điều kỳ diệu xảy ra! Việt Nam hãy tận dụng công nghệ và tài nguyên hiện có để thực hiện những nhiệm vụ cấp bách phục vụ cho tương lai," GS Solomon nhấn mạnh.
"Trong tương lai, chúng ta có thể làm nhiều hơn nữa để ngăn chặn tác hại từ khí CO2. Chúng ta có thể áp dụng những phương pháp đã được sử dụng với chất CFC đối với khí này."
"Tôi mong đợi ngày lỗ thủng tầng ozon biến mất"
GS Solomon hi vọng sẽ có một ngày chứng kiến tầng ozon được vá hoàn toàn.
Việc vá lỗ thủng tầng ozon không phải là điều có thể thực hiện ngay trong một ngày. Quá trình này sẽ mất thời gian để khắc phục vì các hóa chất phá hủy tầng ozon đã tồn tại trong không khí từ lâu. Gần 40 năm sau khi GS Susan Solomon và đồng nghiệp tìm ra bằng chứng, lỗ thủng đang dần thu hẹp.
GS Solomon cho biết: "Tình trạng lỗ thủng tầng ozon vẫn diễn ra hiện nay. Mặc dù không nên quá lạc quan, nhưng tầng ozon đang dần dần phục hồi. Trong vòng 20 năm tới, nghĩa là vào năm 2050, lỗ thủng này sẽ hoàn toàn biến mất. Lúc đó, tôi sẽ 94 tuổi và nếu có may mắn, tôi sẽ được trải nghiệm điều đó. Điều gì tuyệt vời hơn khi thấy giấc mơ của cả thế giới trở thành sự thật. Việc khắc phục lỗ thủng tầng ozon chắc chắn sẽ truyền cảm hứng giúp chúng ta hành động mạnh mẽ hơn trong việc giải quyết các vấn đề khác". - Minh Hằng