Ung thư buồng trứng chọn lựa “đích” tấn công 6 nhóm người, ngay cả những người sạch sẽ cũng không thoát!

Ung thư buồng trứng chọn lựa “đích” tấn công 6 nhóm người, ngay cả những người sạch sẽ cũng không thoát!

Những thói quen và tiền sử có thể tăng nguy cơ ung thư buồng trứng: thừa cân, vệ sinh vùng kín sai cách, tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư, sinh con muộn, từng mắc bệnh ung thư, chế độ ăn uống và nghỉ ngơi không lành mạnh

Ung thư buồng trứng là loại ung thư phổ biến thứ ba ở phụ nữ, sau ung thư vú và ung thư tử cung. Nó được coi là một loại ung thư gây tử vong tối tăm vì triệu chứng thường không rõ ràng và chỉ xuất hiện ở giai đoạn muộn.

Thống kê từ Tổ chức Ung thư Toàn cầu GLOBOCAN cho thấy, khoảng một phần ba số trường hợp được chẩn đoán khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, không thể phẫu thuật. Vì vậy, việc phòng ngừa và phát hiện sớm rất quan trọng. Đặc biệt đối với 6 nhóm phụ nữ mà ung thư buồng trứng "thích tấn công nhất" sau đây:

1. Thừa cân, béo phì

Tiếp nhận cân nặng dư thừa hoặc béo phì có thể đẩy nguy cơ phát triển nhiều loại ung thư, trong đó có ung thư buồng trứng. Điều này bởi khối lượng mỡ thừa trong cơ thể, rối loạn hormone, sự suy giảm của khả năng chống viêm, và tác động từ insulin... Ngoài ra, thừa cân và béo phì còn có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến tình trạng bệnh và tỷ lệ tồn tại của những người mắc ung thư buồng trứng.

Ung thư buồng trứng chọn lựa “đích” tấn công 6 nhóm người, ngay cả những người sạch sẽ cũng không thoát!

Sự kiểm soát cân nặng mang lại lợi ích cho sức khỏe của phụ nữ và giảm nguy cơ mắc ung thư (Hình ảnh minh họa)

Một nghiên cứu mới đăng trên Tạp chí ung thư Mỹ 2016 đã chỉ ra rằng, những phụ nữ béo phì có nguy cơ mắc bệnh ung thư buồng trứng cao hơn so với những người gầy. Nghiên cứu này đã được tiến hành trên hơn 94.000 phụ nữ trong suốt hơn 7 năm. Kết quả cho thấy, những phụ nữ bị béo phì có khả năng mắc bệnh ung thư buồng trứng cao hơn, đặc biệt là những người chưa bao giờ sử dụng liệu pháp thay thế hormone trong thời kỳ mãn kinh. Trong nhóm này, nguy cơ mắc bệnh ung thư buồng trứng tăng lên đến 83% so với những người có trọng lượng trung bình.

2. Vệ sinh vùng kín sai cách

Khi nhắc đến việc vệ sinh vùng kín có thể gây ra bệnh phụ khoa và ung thư buồng trứng, hiển nhiên phụ nữ sẽ nghĩ đến những thói quen vệ sinh kém. Điều này không hoàn toàn sai, tuy nhiên, rất ít người biết rằng vệ sinh quá mức cũng có thể dẫn đến nguy cơ mắc bệnh ung thư buồng trứng.

Bác sĩ Lai Hongzheng, chuyên khoa sản phụ khoa tại Bệnh viện Shuanghe ở Đài Loan, Trung Quốc, cho biết chúng ta cần duy trì vệ sinh vùng kín nhưng không nên vượt quá mức cần thiết vì điều này không chỉ không cần thiết mà còn gây ra các vấn đề về sức khỏe. Ví dụ, việc rửa vùng kín quá nhiều lần mỗi ngày, sử dụng quá nhiều sản phẩm tẩy rửa, mài mòn quá mạnh hoặc thậm chí đưa tay vào sâu bên trong để thụt rửa âm đạo.

Những hành vi này gây mất cân bằng môi trường âm đạo, tăng căng thẳng oxy hóa trong khoang chậu, gây tổn thương và viêm nhiễm. Điều này làm tăng nguy cơ mắc các bệnh ung thư phụ khoa. Trong số đó, ung thư tử cung, ống dẫn trứng và buồng trứng là những căn bệnh phổ biến nhất. Một nghiên cứu được tiến hành tại Viện Khoa học sức khỏe môi trường Quốc gia Mỹ gồm 40.000 phụ nữ cho thấy rằng, những người có thói quen thụt rửa âm đạo có nguy cơ mắc ung thư buồng trứng tăng gấp đôi.

Các chuyên gia khuyến cáo rằng việc làm sạch vùng kín nên được thực hiện 1 - 2 lần mỗi ngày, đặc biệt sau khi ngủ dậy vào buổi tối và/hoặc sau một ngày dài trước khi đi ngủ. Chỉ cần phơi bên ngoài và rửa nhẹ nhàng bằng nước sạch hoặc nước ấm đã là đủ. Nên tránh thụt rửa âm đạo quá mức và lựa chọn các sản phẩm vệ sinh nhẹ nhàng, không sử dụng quá thường xuyên. Nếu gặp vấn đề về dịch tiết, mùi hôi hoặc bệnh phụ khoa, nên đến nhờ tư vấn từ dược sĩ hoặc bác sĩ dựa vào từng tình huống.

Ung thư buồng trứng chọn lựa “đích” tấn công 6 nhóm người, ngay cả những người sạch sẽ cũng không thoát!

Vệ sinh vùng kín quá mức, đặc biệt là thụt rửa âm đạo có thể tăng nguy cơ mắc ung thư buồng trứng (Ảnh minh họa)

3. Tiền sử gia đình mắc ung thư

Ung thư buồng trứng có thể được chuyển giao trong gia đình. Nếu mẹ, chị em gái hoặc con gái của bạn đã mắc ung thư buồng trứng, nguy cơ bạn mắc ung thư buồng trứng cũng tăng lên. Ngoài ra, nguy cơ cũng cao hơn nếu có nhiều người thân trong gia đình đã bị ung thư buồng trứng.

Tiền sử gia đình mắc một số loại ung thư khác như ung thư đại trực tràng và ung thư vú có thể ảnh hưởng đến nguy cơ mắc ung thư buồng trứng. Lý do cho điều này là vì các bệnh ung thư này có thể do đột biến di truyền trong một số gen, gây ra hội chứng ung thư gia đình, làm tăng nguy cơ mắc ung thư buồng trứng.

4. Sinh con muộn, dậy thì sớm hoặc mãn kinh muộn

Phụ nữ đầu thai lần đầu sau 35 tuổi hoặc chưa từng đạt thai đủ tháng có khả năng bị mắc ung thư buồng trứng cao hơn. Những phụ nữ đã từng mang thai và sinh đủ tháng trước 26 tuổi có nguy cơ mắc ung thư buồng trứng thấp hơn so với những phụ nữ chưa từng mang thai. Nguy cơ này giảm đi theo mỗi lần mang thai đạt đủ tháng. Việc cho con bú cũng có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh hơn nữa.

Phụ nữ trưởng thành sớm (trước 12 tuổi) và trở nên mãn kinh muộn (sau 55 tuổi) cũng có khả năng mắc ung thư buồng trứng cao hơn so với những người khác. Nguyên nhân cho điều này là do những phụ nữ này phải chịu tác động kéo dài của hormone estrogen và progesterone. Ngoài ra, nhóm phụ nữ này cũng có nguy cơ cao mắc nhiều loại ung thư khác liên quan đến hormone như ung thư vú, ung thư tử cung...

5. Từng mắc một số bệnh ung thư, bị rối loạn di truyền

Nếu trong gia đình có người bị ung thư và phụ nữ mắc các loại ung thư như ung thư vú, ung thư ruột kết hoặc nội mạc tử cung, thì cũng có khả năng mắc ung thư buồng trứng. Trong số đó, những người từng mắc ung thư vú hoặc có tiền sử gia đình bị ung thư vú có nguy cơ cao nhất.

Các phụ nữ có các rối loạn di truyền như Hội chứng Lynch và hội chứng Peutz-Jeghers cũng có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn. Hội chứng Lynch được đặc trưng bởi nguy cơ cao về ung thư trong đường tiêu hóa, đường tiết nước bọt và các cơ quan khác. Hội chứng Peutz-Jeghers dẫn đến tăng nguy cơ phát triển polyps trong đường tiêu hóa và một số loại ung thư, bao gồm ung thư vú, ung thư ruột kết, ung thư trực tràng, ung thư tụy, ung thư dạ dày, ung thư tinh hoàn, ung thư buồng trứng, ung thư phổi và ung thư cổ tử cung.

Dù không phổ biến, nhưng các đột biến gen vẫn có khả năng gây ung thư vú. Ví dụ, người có đột biến BRCA1 có nguy cơ cao hơn từ 35 - 70% mắc ung thư buồng trứng. Phụ nữ có đột biến BRCA2 có nguy cơ cao hơn từ 10 - 30%.

6. Chế độ ăn uống, nghỉ ngơi không lành mạnh

Hình thức ăn uống quá nhiều chất béo, tiêu thụ quá nhiều đồ chiên rán và ưa dùng thực phẩm siêu chế biến được xem là những yếu tố tăng nguy cơ mắc ung thư buồng trứng. Theo một nghiên cứu của Đại học Hoàng gia London, việc tăng 10% lượng thực phẩm siêu chế biến có thể dẫn đến tăng 2% tỷ lệ mắc bất kỳ loại ung thư nào và tăng 19% nguy cơ mắc ung thư buồng trứng.

Ung thư buồng trứng chọn lựa “đích” tấn công 6 nhóm người, ngay cả những người sạch sẽ cũng không thoát!

Để phòng bệnh ung thư buồng trứng, chúng ta nên thiết lập một chế độ ăn uống lành mạnh từ sớm.

Trường Y khoa Aston ở Birmingham, Vương quốc Anh đã tiến hành một nghiên cứu trên 197.000 người và phát hiện rằng ăn quá nhiều thực phẩm siêu chế biến có thể làm tăng nguy cơ mắc và tử vong do ung thư, đặc biệt là ung thư buồng trứng. Thực phẩm siêu chế biến bao gồm súp đóng gói, nước sốt, bánh pizza đông lạnh, các bữa ăn sẵn, cũng như xúc xích, khoai tây chiên, nước ngọt, bánh quy, bánh ngọt, kẹo, bánh rán, kem...

Ngoài ra, việc thức khuya kéo dài, tâm trạng tiêu cực liên tục, căng thẳng kéo dài và ăn các thực phẩm chứa hormone hoặc có thể ảnh hưởng đến hormone đã được các nghiên cứu chứng minh là làm tăng nguy cơ mắc ung thư buồng trứng.

Nguồn và ảnh: ETtoday, Health 2.0, Women’s Health