Tố cáo hành vi lấn chiếm đất công, kiện lấn chiếm đất ở đâu?

Tố cáo hành vi lấn chiếm đất công, kiện lấn chiếm đất ở đâu?

Tố cáo hành vi lấn chiếm đất công, kiện lấn chiếm đất ở đâu? Tình trạng lấn chiếm đất công đang diễn ra ngày càng nhiều Người dân cần biết quy định của pháp luật về tố cáo và khởi kiện hành vi này để bảo vệ quyền lợi của mình Cùng tìm hiểu về thẩm quyền giải quyết, trình tự, thủ tục và nội dung đơn tố cáo và đơn khởi kiện hành vi lấn chiếm đất công

1. Quy định của pháp luật về tố cáo hành vi lấn chiếm đất công:

1.1. Thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi lấn chiếm đất công:

Trong lĩnh vực đất đai, hành vi chiếm đất diễn ra không hợp pháp, bao gồm cả đất công và các loại đất không thuộc sở hữu của bất kỳ chủ thể riêng nào trong xã hội. Điều này áp dụng cho các đất do nhà nước quản lý để phục vụ mục đích công cộng như đường, cầu, hệ thống an ninh quốc phòng… Theo Điều 204 Luật Đất đai năm 2013, tất cả cá nhân đều được coi là bình đẳng và có quyền thực hiện các quyền công dân theo Hiến pháp. Vì vậy, mọi cá nhân đều có quyền tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về sử dụng và quản lý đất đai. Việc giải quyết tố cáo sẽ được tiến hành theo quy định tố cáo trong luật pháp.

Đối với các chủ thể có hành vi chiếm đất công, Luật tố cáo năm 2018 quy định về thẩm quyền giải quyết việc tố cáo hành vi vi phạm pháp luật đất đai. Theo quy định này, khi xảy ra hành vi chiếm đất công, công dân sẽ gửi đơn phản ánh về việc các gia đình và các chủ thể chiếm đất công cho Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã phường. Đơn này liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật của công dân và được Chủ tịch quản lý có thẩm quyền giải quyết.

Do vậy, nếu phát hiện hành vi lấn chiếm đất đai, cá nhân hoặc tổ chức có trách nhiệm phát hiện và tố cáo để đấu tranh phòng chống vi phạm. Sau khi xác minh và xét thấy đất không thuộc sở hữu của người bị tố cáo và hành vi lấn chiếm đất công đã xảy ra, sẽ tiến hành xử phạt và buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm. Đồng thời, buộc người bị tố cáo trả lại đất và nộp lại số lợi bất hợp pháp đã có được từ hành vi lấn chiếm đất của nhà nước.

Nếu có dấu hiệu bao che từ cán bộ trong quá trình thực hiện quyền, ngoài việc tố cáo hành vi lấn chiếm đất công, cũng có thể tố giác việc sai trái của các cán bộ bao che. Đơn tố giác sẽ nêu rõ việc người có thẩm quyền tiếp nhận nhưng không xử lý, gửi tới chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh do cấp dưới không thực thi tốt chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao.

1.2. Trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo đối với hành vi lấn chiếm đất công:

Đầu tiên, để giải quyết tố cáo về hành vi lấn chiếm đất công, người giải quyết cần đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:

– Tố cáo phải được thực hiện theo quy định và bao gồm đầy đủ thông tin về thời gian thực hiện hành vi tố cáo, tên, địa chỉ và thông tin liên hệ của người tố cáo, hành vi vi phạm pháp luật cụ thể là lấn chiếm đất công, cũng như tên, địa chỉ và thông tin khác liên quan đến các bên có liên quan;

- Người tố cáo phải đáp ứng đủ khả năng hành vi dân sự theo quy định của pháp luật dân sự; nếu không đủ khả năng hành vi dân sự, phải có người đại diện theo quy định của pháp luật (theo pháp luật hoặc theo uỷ quyền).

- Nội dung tố cáo phải được trình bày một cách rõ ràng, cho thấy người tố cáo có căn cứ để xác định người vi phạm và hành vi vi phạm pháp luật. Ví dụ, có tài liệu chứng cứ như ảnh chụp, video,... Sau khi quyết định thụ lý tố cáo được đưa ra, người giải quyết tố cáo có trách nhiệm thông báo cho người tố cáo và thông báo nội dung tố cáo cho người bị tố cáo trong vòng 05 ngày làm việc từ ngày đó.

Thứ hai, để giải quyết tố cáo về việc lấn chiếm đất công, người tiến hành phải xác minh hoặc ủy quyền cho cơ quan thanh tra hoặc tổ chức, cá nhân khác để xác minh nội dung tố cáo (gọi chung là người xác minh nội dung tố cáo). Quá trình xác minh nội dung tố cáo cần được thực hiện bằng văn bản để tránh hiểu lầm. Người xác minh nội dung tố cáo phải thực hiện các biện pháp cần thiết để thu thập thông tin và tài liệu nhằm làm rõ tố cáo. Thông tin và tài liệu thu thập được phải được ghi chép thành văn bản, đôi khi cần lập biên bản và được lưu giữ trong hồ sơ vụ việc tố cáo. Sau khi hoàn thành quá trình xác minh nội dung tố cáo, người xác minh phải báo cáo kết quả và đề xuất biện pháp xử lý phù hợp và hiệu quả nhất cho người giải quyết tố cáo.

Thứ ba, dựa trên nội dung tố cáo, giải trình của người bị tố cáo, kết quả xác minh nội dung tố cáo và các tài liệu, chứng cứ tương ứng, người giải quyết tố cáo sẽ ban hành kết luận về nội dung tố cáo.

1.3. Thời hạn giải quyết tố cáo đối với hành vi lấn chiếm đất công: 

– Với vụ việc phức tạp, thời hạn giải quyết tố cáo có thể được gia hạn một lần, nhưng không quá 30 ngày;

– Đối với các vụ việc đặc biệt phức tạp, thời hạn giải quyết tố cáo có thể được gia hạn hai lần, mỗi lần không quá 30 ngày.

1.4. Nội dung cơ bản của mẫu đơn tố cáo đối với hành vi lấn chiếm đất công: 

Đơn tố cáo là một tài liệu quan trọng trong quá trình tố cáo, vì vậy nó phải được đảm bảo về mặt hình thức và nội dung. Thông thường, đơn tố cáo sẽ bao gồm các thông tin cơ bản sau:

- Quốc hiệu, tiêu đề, ngày, tháng, năm;

– Tên đơn là đơn tố cáo đối với hành vi lấn chiếm đất công;

– kýnh gửi đến cơ quan có thẩm quyền, sau đó ghi tên cơ quan tiếp nhận tố cáo;

- Thông tin cá nhân của người nộp đơn, bao gồm họ và tên, địa chỉ hiện tại, ngày tháng năm sinh, số căn cước công dân (hoặc hộ chiếu còn hiệu lực), ngày cấp và nơi cấp;

- Thông tin cơ bản về người bị tố cáo;

- Nội dung tố cáo gồm việc trình bày hành vi lấn chiếm của cá nhân/tổ chức vi phạm, bao gồm thông tin về thời gian, diện tích và kết quả của hành vi lấn chiếm. Đồng thời, đề xuất yêu cầu cụ thể như: yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành thẩm tra, xác minh, giải quyết và xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của những người bị ảnh hưởng.

- Đính kèm lời cam đoan và chữ ký của người làm đơn.

2. Quy định của pháp luật về khởi kiện hành vi lấn chiếm đất công: 

2.1. Thẩm quyền giải quyết đơn khởi kiện đối với hành vi lấn chiếm đất công:

Thông theo quy định tại Điều 203 của Luật Đất đai năm 2013 hiện hành về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai. Ngoài ra, từ góc độ kỹ thuật lập pháp, Luật Đất đai năm 2013 cũng quy định tại Điều 202 về việc hòa giải tranh chấp đất đai nhằm rõ ràng hóa quy trình hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã. Điều này, một cách rõ ràng, phân chia qua các giai đoạn trong quá trình giải quyết tranh chấp đất đai. Theo đó, việc giải quyết tranh chấp đất đai bắt buộc phụ thuộc vào giai đoạn hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi đã xảy ra tranh chấp. Nếu qua giai đoạn hòa giải mà không đạt thành, thì sẽ tiếp tục giải quyết tranh chấp đất đai tại cơ quan có thẩm quyền như Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp tỉnh hoặc Tòa án nhân dân theo quy định.

Tòa án nhân dân là một cơ quan nhà nước được giao trách nhiệm giải quyết tranh chấp. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp về đất đai của Tòa án nhân dân đã được quy định rõ ràng trong Luật Đất đai và càng ngày càng được mở rộng, điều này phù hợp và phản ánh chính xác quan hệ pháp luật và đáp ứng đa số yêu cầu của thực tế, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay.

2.2. Trình tự, thủ tục khởi kiện hành vi lấn chiếm đất công: 

Hồ sơ khởi kiện theo đúng quy định của pháp luật nhìn chung bao gồm:

– Đơn khởi kiện hành vi lấn chiếm đất công;

- Đơn khởi kiện đi kèm tài liệu và chứng cứ để minh chứng quyền lợi;

- Hồ sơ cá nhân bao gồm chứng minh nhân dân, căn cước công dân hoặc sổ hộ khẩu.

Thủ tục tiến hành kiện tụng giải quyết tranh chấp diễn ra như sau:

- Gửi hồ sơ khởi kiện đến Tòa án nơi có đất bị chiếm đoạt để yêu cầu giải quyết trong thời hạn quy định bởi pháp luật về đất đai.

- Khi hồ sơ khởi kiện đạt đầy đủ và hợp lệ, Tòa thông báo yêu cầu người khởi kiện nộp tiền tạm ứng án phí.

- Sau khi đã nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện cần đưa biên lai chứng minh việc đã thực hiện nghĩa vụ này đến Tòa.

– Tòa án ra quyết định thụ lý và tiến hành thủ tục tố tụng dân sự để giải quyết.

Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết: 

– Luật Đất đai năm 2013;

– Bộ luật dân sự năm 2015;

– Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

– Luật Tố cáo năm 2018.