Phân tích hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc

Phân tích hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc

Mô tả bức tượng đài về người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, tạo hình tượng những người nông dân quả cảm và tinh thần cao thượng Đánh giá chi tiết về những đặc điểm và vai trò của hình tượng này trong tác phẩm

1. Dàn ý phân tích hình tượng người nông dân nghĩa sĩ:

1.1. Mở đầu

– Cung cấp một vài thông tin về Nguyễn Đình Chiểu và tác phẩm "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc": Một nhà văn đặc trưng của miền Nam, là tiếng gọi bi tráng cho một giai đoạn lịch sử đau thương nhưng vĩ đại.

– Mô tả tổng quan về hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong tác phẩm: tượng đài vĩ đại về những nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc, những anh hùng tham gia cuộc chiến và hy sinh vì Đất nước.

a. Hoàn cảnh sáng tác của Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

+ Thực dân Pháp đánh chiếm thành Gia Định

+ Phong trào vũ trang Pháp dấy lên mạnh mẽ

+ Đêm 16/12/1861 Bùi Quan Diệu chỉ huy 3 cánh quân tập kích vào đồn Tây Dương ở Cần Giuộc.

- Nghĩa quân đã giành được quyền kiểm soát đồn địch, hủy hoại các nhà thờ và tấn công đồn trưởng Dumont, tiêu diệt một số lính Mã tà, Ma ní.

- Pháp đã buộc phải triệu tập tàu chiến với nhiệm vụ đánh bại đối thủ từ sông Cần Giuộc để giành lại quyền kiểm soát đồn.

+ Phía nghĩa quân hi sinh 27 người.

b. Nguồn gốc xuất thân của những người nông dân nghĩa sĩ

- Từ một người nông dân nghèo khó, những người từng sống ở các vùng quê xa xôi và đã rời quê hương để khai khẩn đất mới để kiếm sống: "kiệt quệ trong kinh doanh; đặt tâm tư vào việc khắc phục nghèo đói"; sống trong hoàn cảnh cô đơn, thiếu sự ủng hộ từ người khác, làm việc một cách im lặng nhưng vẫn đấu tranh với cảnh nghèo khó suốt đời.

- Nghệ thuật tạo ra sự tương phản: "chưa quen - chỉ biết, đã từng quen - bỗng dưng quên đi".

Nguyễn Đình Chiểu nhấn mạnh tầm quan trọng của việc trải qua sự khác biệt giữa cuộc sống quen thuộc trên ruộng đồng và cuộc sống xa lạ trong chiến trận và quân sự của những người nông dân Nam Bộ, nhằm tạo ra hình ảnh anh hùng vượt trội trong đoạn văn sau.

Những người nông dân nghĩa sĩ được xem là những người nghèo khó và tốt bụng, và hoàn cảnh khó khăn đã bắt buộc họ phải trở thành những chiến sĩ và cuối cùng là "nghĩa sĩ".

c.Vẻ đẹp của người nông dân

*Người nông dân nghĩa sĩ hiện lên với lòng yêu nước nồng nàn

- Khi thực dân Pháp xâm lược, người nông dân cảm thấy kinh hãi ban đầu, sau đó hy vọng vào tin tức từ quan, tức giận, căm thù và cuối cùng lao đầu vào cuộc đấu tranh chống lại.

Sự mong đợi “thèm thuồng”: như “đợi trời mưa”

Thái độ đối với địch: “ghét cay ghét đắng như nông dân ghét cỏ”, “muốn đến để ăn gan”, “muốn đi cắn cổ” – Thái độ căm ghét, căm thù đến cùng cực được miêu tả bằng những hình ảnh mạnh mẽ và chân thực.

– Nhận thức về đất nước: Họ không khoan dung cho những kẻ lừa dối hay gian lận. => Họ tự nguyện tham gia vào cuộc chiến: "không chờ đợi ai mang lại công lý..."

=> Tình trạng tâm lý của người nông dân đã thay đổi đáng kể, từ thái độ thờ ơ và thiếu trách nhiệm của những quan chức, họ đã tự nguyện đứng lên chiến đấu với tâm huyết yêu nước và căm hận giặc.

Người nông dân nghĩa sĩ được tôn vinh vì sự hy sinh và tinh thần chiến đấu vĩ đại của họ.

- Tinh thần chiến đấu xuất sắc: Mặc dù không phải là lính, họ chỉ là những người dân bình thường nhưng họ sẵn lòng làm lính để bảo vệ quê hương.

– Trang phục mộc mạc: chiếc áo vải, một cây tầm vông, một con dao phay, và chiếc cúi từ rơm đã ghi dấu trong lịch sử => làm nổi bật sự dũng cảm của những người nông dân làm chiến sĩ

– Đạt được những thành tựu đáng tự hào: "tiêu diệt trụ sở giảng đạo", "đoạt mạng thủ lĩnh quan cai trị".

- "lực đẩy", "va đập", "đấu tranh", "đâm xuyên qua", "cắt ngược" ...: các hành động mạnh mẽ và sôi nổi với tốc độ nhanh và mật độ cao.

- Sử dụng các hành động xuyên qua "đâm ngang, chém ngược" => gia tăng tính quyết liệt của cuộc chiến.

và đóng góp vượt trội của họ trong việc đánh giặc cứu nước.

* Tượng đài nghệ thuật vững chắc tôn vinh người nông dân nghĩa sĩ.

- Hình ảnh của sự hy sinh của những người nông dân được diễn đạt một cách cảm động: "cho xác lộ đi quá vội vã", "thân mình tráng lệ như vỏ da ngựa": như một cách để tránh đề cập đến sự hy sinh của những nhà nghĩa sĩ.

- Chính những người nông dân tự nguyện chiến đấu với những vũ khí cơ bản đã tử vong anh dũng trên chiến trường, đồng thời gửi lại niềm thương xót mà cũng tự hào cho những người ở lại.

=> Hình tượng những người nông dân nghĩa sĩ với sự chiến đấu và hy sinh anh dũng xứng đáng đi vào sử sách.

3.  Kết bài

- Đánh giá về vẻ đẹp của hình tượng người nông dân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.

- Tổng quan về những nét nghệ thuật đặc sắc góp phần tạo nên sự thành công của hình tượng này.

– Lần đầu tiên trong lịch sử văn học, Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời với hình ảnh tường thuật về người nông dân chống lại thực dân Pháp, giữ vững phẩm chất của mình trong cuộc sống.

2. Phân tích hình tượng người nông dân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc:

Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn tài ba với việc tái hiện hình ảnh người nông dân trong văn học, tạo dấu ấn mới qua bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”. Trong bài viết, hình ảnh người nông dân được mô tả chi tiết. Những người nông dân nghèo khó, chịu khó làm việc một cách im lặng, suốt năm chỉ biết cày ruộng, lao động vất vả. Họ là những người nông dân có tình yêu và sự ghê tởm rõ ràng, hẳn hoi từ chối sát nhập với kẻ thù là thực dân Pháp. Họ đã dũng cảm chiến đấu và tự hy sinh, trong văn cảnh, từ ngữ bi thương chứa đựng trong nước mắt nhưng không chảy ra. Đó chính là điều đặc biệt trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu.

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được sáng tác năm 1858, khi quân Pháp xâm lược vào Đà Nẵng, Việt Nam. Sau khi chiếm Gia Định vào đầu năm 1859, quân Pháp tiếp tục tấn công các vùng lân cận như Tân An, Cần Giuộc và Gò Công. Vào ngày 15 tháng 11 năm Tân Dậu, một số nghĩa sĩ nông dân, tức giận với người xâm lược, đã dũng cảm tấn công đồn Pháp ở Cần Giuộc, tiêu diệt được một số quân địch và viên tri huyện Việt cộng tác với Pháp. Khoảng 15 nghĩa sĩ đã hi sinh trong cuộc chiến này, tạo nên sự xúc động lớn trong cộng đồng. Theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định, Đỗ Quang và Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" để đọc trong lễ tang tất cả những người hy sinh trong trận đánh này.

Bài văn tế bắt đầu bằng hai từ "Hỡi ôi!" với âm thanh trầm trọng, thể hiện sự khóc thương của nhà thơ đối với nghĩa sĩ và cảm xúc đau đớn vì tình trạng nước nguy hiểm và nghèo đói.

"Súng giặc, đất rền; lòng dân trời tỏ" mang ý nghĩa rằng Tổ quốc đang gặp nguy hiểm, âm thanh của súng giặc vang lên khắp trời đất và quê hương.

Đầu tiên, với một bước ngoặt súc tích, tác giả đã trình bày được bối cảnh thời đại và tầm quan trọng của những người nông dân nghĩa sĩ. Đó là một thời đại đầy khó khăn và cực nhọc, nhưng cũng vĩ đại. Thời đại đó đã sinh ra những nông dân có tận tụy với Tổ quốc và quê hương. Câu văn ngắn gọn "súng giặc/lòng dân, đất rền/trời tỏ" tái hiện không khí căng thẳng và quyết liệt của nhân dân trong cuộc chiến với địch. Hai câu văn ngắn nhưng có ý nghĩa sâu sắc, là nền móng để hiểu rõ vẻ đẹp của những anh hùng nông dân sau đó. Trong thời điểm mất đất mất nhà, chỉ có nhân dân dũng cảm đứng lên đảm nhận trọng trách lịch sử, chiến đấu để giành lại nước nhà. Dù chỉ là người nông dân, họ đã cương quyết đánh giặc để bảo vệ độc lập cho Tổ quốc yêu dấu. Đó là tấm lòng yêu nước cháy bỏng hiện hữu trong mỗi cá nhân. Tấm lòng yêu nước và thù địch với kẻ xâm lược của những người nông dân, những người lao động mới là nguồn sáng chính nghĩa rực rỡ trên trời đất. Hình tượng chính của bài Văn tế là các chiến sĩ nghĩa quân Cần Giuộc.

Họ bắt nguồn từ gia đình nông dân nghèo sống cuộc sống khó khăn sau lưng tre làng. Với sự chất phác và hiền lành, họ là những người siêng năng và cần cù trong công việc, bám rễ trong xóm làng, thân thiết với những con trâu, cái cày và sự nghiệp nông nghiệp. Họ thật sự xa lạ với cuộc sống xa hoa và cung ngựa trường nhung. Dẫn nhớ về hồi tưởng xa xưa:

Nông dân Việt Nam, đặc biệt là ở vùng Nam Bộ, luôn chịu đựng một mình và im lặng mặc dù công việc nặng nhọc và khó khăn. Từ việc làm ruộng, vật lộn để sinh sống cho đến cuối cùng rơi vào hoàn cảnh nghèo khó. Họ chỉ biết làm việc cả ngày, không biết gì về thú vui hay giải trí.

"Chưa từng làm quen với cưỡi ngựa và đi đến trường, chỉ biết làm ruộng, sống trong làng."

Họ là một nhóm người đông đảo, sống gần gũi xung quanh chúng ta. Suốt năm, họ làm việc chân tay bùn đất với nghề nông, và không quan tâm đến việc binh sĩ và vũ khí để đánh giặc.

"Cuộc sống của họ xoay quanh việc làm nông, làm ruộng, làm đồng, cấy cảm, tay cảm thụ đầy quen thuộc; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng nhìn thấy là những điều xa lạ với họ."

"Họ đã dành cả đời quanh quẩn sau lũy tre làng, cùng với công việc đồng áng vất vả: 'chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ', 'việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm' là những điều hoàn toàn thân thuộc đối với họ, trong khi đó việc binh sĩ như 'tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó' lại xa lạ hoàn toàn."

"Họ gắn bó với cuộc sống nông thôn, gắn bó với quê hương, và do đó khi nghe tin địch xâm lược, họ tin tưởng vào triều đình và coi đó như trời hạn trông mưa. Họ mang trong lòng sự căm thù sâu sắc với kẻ thù, với 'bòng bong che trắng lốp muốn tới ăn gan', 'ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ'."

"Không những vậy, họ còn có ý thức trách nhiệm đối với quê hương và đất nước khi tổ quốc gặp nguy hiểm. Mặc dù không được học binh pháp, nhưng họ sẵn sàng hi sinh bản thân vì sự bình yên của quê hương và đất nước."

Nhưng khi đất nước bị giặc Pháp xâm lược, những người dân chân lấm tay bùn đã tự nguyện trở thành quân tự vệ để chiến đấu, giải cứu đất nước và bảo vệ công việc làm ăn của họ, điều mà họ coi là sinh kế quan trọng và mình tự hào. Họ như muốn ăn gan khi thấy quân thù hiện diện, và muốn chấm dứt toàn bộ hoạt động xâm lược khi thấy khói đen bốc lên từ các trạm xăng.

Người nông dân từng là những người chỉ biết làm ruộng, bị hạn chế tầm nhìn, nhưng trong trận đánh chống Pháp, họ đã trỗi dậy và trở thành những anh hùng kiên cường. Tuy vũ khí của họ chỉ là những dụng cụ đơn giản như cây cuốc, cày, nhưng tinh thần của họ lại đầy sức mạnh và nhiệt huyết chiến đấu. Hành động của họ dũng mãnh và quyết liệt, họ đạp rào, xô cửa và không ngại hy sinh. Đoạn thơ miêu tả cảnh đấu tranh hùng căng, tác giả sử dụng nhiều động từ để tái hiện mạnh mẽ sự hào hùng và dũng cảm của những người này. Trong Văn Tế, Nguyễn Đình Chiểu đã minh họa mâu thuẫn giữa dũng sĩ quê hương và giặc Pháp. Giặc xâm lược được trang bị hiện đại với tàu thiếc, tàu đồng và đạn nhỏ, đạn to. Ngược lại, nghĩa quân chỉ có trang bị thô sơ như một chiếc áo vải, một cây tầm vông, một lưỡi dao phay và súng hoả mai khai hoả bằng rơm. Mặc dù vậy, họ vẫn gây được nhiều thành công như đốt nhà dạy đạo và chém rớt đầu quan. Bài Văn Tế đã tái hiện những cuộc giao tranh khốc liệt giữa nghĩa quân và giặc Pháp.

"Quan chi nhọc quản vững trống oanh liệt, trống thúc, đạp rào lướt tới, coi giặc như không tồn tại; không sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ hay đạn lớn, xông cửa vào, hy sinh như không có."

"Kẻ đâm từ ngang, người chém từ phía trên, khiến cho ma ní, mã tà hồn kinh; bọn hè phía trước, lũ ó sau, tháo kệ tàu thiếc, tàu đồng súng bắn nổ."

Không khí chiến trận vang lên với âm thanh của trống thúc giục quân lính, câu tục ngữ "có bọn hè trước, lũ ó sau" râm ran trong không gian cùng tiếng súng nổ. Những nghĩa sĩ của chúng ta coi cái chết như không có sự tồn tại, tấn công như cơn bão, lung linh giữa lãnh địa của địch: "vượt qua rào chắn", "xông qua cánh cửa", "đâm ngang và chém từ phía sau", "thám hiểm trước, lưỡng lự sau". Nguyễn Đình Chiểu đã dùng ngôn ngữ sống động để thể hiện tinh thần dũng cảm và sự kiên cường bất khuất của những nghĩa sĩ nông dân ở Cần Giuộc. Ông cũng gửi đến sự ngưỡng mộ đối với những người nghĩa sĩ nông dân. Đây là tác phẩm đầu tiên từ trước đến nay có miêu tả về nghĩa sĩ nông dân.

Trong bài "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" của Nguyễn Đình Chiểu, còn có giai điệu khóc của mẹ già ngồi nhà chờ con về, bạn đời nhớ nhung về người chồng, con trông chờ cha trở về từ cuộc đời đáng sợ của chiến trường, đầy bi ai. Nhiều nghĩa sĩ đã ngã xuống trong cuộc chiến, mang tư thế của những người hùng.

“Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ.”

Đất nước, quê hương vô cùng thương tiếc. Một không gian rông lớn bùi ngùi, đau. đớn:

"Dọc theo dòng sông Cần Giuộc, cỏ cây vươn xa khắp nơi, như một bức tranh thênh thang đầy nỗi buồn. Nhìn về phía chợ Trường Bình, hai hàng người già trẻ đứng lặng yên.

Những tiếng khóc thương của người mẹ già, nỗi đau chật chội trong lòng người vợ trẻ, và cảm xúc hân hoan đầy nhớ thương của con cái, tất cả đã được mô tả một cách vô cùng xúc động."

"Mẹ già rỉ nước mắt nhìn con trẻ đau đớn, đèn khuya leo lét giữa lều; vì yếu đuối, vợ thay chồng chạy đi tìm, cánh bóng xa xăm biến mất trong ngõ.”

"Các nhà nghiên cứu đã sống một cuộc đấu tranh anh dũng và hy sinh đáng ngưỡng mộ. Tấm gương của sự chiến đấu và hy sinh của họ nhằm nhắc nhở rằng mỗi đất nước đều có quyền tự do và tự chủ. Không ai được phép xâm chiếm. Họ là tấm gương sáng tỏ đáng tự hào."

“Ôi!

Một trận khói tan; nghìn năm tiết rỡ”

Sự hi sinh của những người anh hùng Cần Giuộc là một bài học quý giá mà họ để lại. Họ thà chết vinh quang còn hơn sống trong nhục nhã. Họ là bước đường sáng cho dân tộc Việt Nam noi theo và là ngọn đèn soi sáng cho dân tộc Việt Nam.

"Sống để đánh đuổi giặc, chết cũng để đánh đuổi giặc, linh hồn sẵn sàng giúp đỡ binh sĩ, kiếp sau nguyện được trả thù người đố kỵ..."

Công lao của người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc sẽ mãi mãi được truyền lại trong lòng mỗi người dân Việt Nam về tấm gương anh dũng, sẵn sàng hy sinh vì độc lập của Tổ Quốc. "Nước mắt anh hùng không ngừng rơi, vì yêu thương những người dân; những cây hương nghĩa sĩ thắp lên hương thơm, vì một câu chuyện gắn kết đất nước". Bài "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" đã làm rõ tình yêu thương chân thành của Nguyễn Đình Chiểu đối với nhân dân. Bài viết này đại diện cho niềm tự hào và lòng biết ơn sâu sắc của nhân dân đối với người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc, những người anh dũng đã chiến đấu chống lại giặc ngoại xâm để bảo vệ độc lập của đất nước, nơi họ đã sinh ra và lớn lên, hay nói cách khác, Tổ quốc mà đối với họ "nó" là rất quan trọng. Người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc là tấm gương về tinh thần dũng cảm và lòng yêu nước sâu sắc, mà những thế hệ sau này sẽ noi theo để xây dựng một đất nước ngày càng giàu mạnh hơn.

Khi miêu tả hình tượng người nông dân nghĩa sĩ, Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng phong cách hiện thực hoàn toàn, tái hiện chân thực nhất hình ảnh của họ từ ngoại hình đến cuộc sống lao động vất vả hàng ngày,... Ông đã áp dụng nhiều biện pháp nghệ thuật như so sánh (như nhà nông ghét cỏ...). Đặc biệt, ông đã sử dụng nhiều thủ thuật đối lập: lướt tới/xông vào, đâm ngang/chém ngược, manh áo vải, ngọn tầm vông/đạn to, đạn nhỏ,... Những phương pháp nghệ thuật này đã giúp khắc họa đầy đủ vẻ đẹp anh dũng, bi tráng của người nông dân nghĩa sĩ. "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" thực sự là một bản hùng ca tôn vinh những người nông dân nghĩa sĩ anh dũng, bất khuất, kiên cường. Hình ảnh và sự hy sinh của họ là minh chứng cho tinh thần yêu nước mãnh liệt, và triết lý sống của chúng ta: "Chết vinh còn hơn sống nhục". Cụ Đồ Chiểu chỉ là "người hát rong của nhân dân" nhưng hình ảnh người nông dân khởi nghĩa trong bài "Văn tế nghĩa sĩ" đã cho chúng ta cái nhìn về một thời đại. Chúng ta tự hào về những con người yếu đuối nhưng kiên cường đối mặt với sức mạnh hung ác. Tự hào về những người dân, lính, nghĩa sĩ vô danh liên tiếp ngã xuống để bảo vệ sự toàn vẹn của đất nước. Họ là bức tượng đài bất tử, và sẽ được kính thời muôn đời.

Bài văn tế được so sánh như một tác phẩm nghệ thuật đặc biệt với những hình tượng nông dân anh hùng mạnh mẽ, tượng trưng cho tinh thần yêu nước và căm thù đối với kẻ thù ngoại xâm của dân tộc chúng ta. Được xây dựng như một tượng đài, bức tượng đột phá này đánh dấu một bi kịch của dân tộc - bi kịch mất nước, và cũng báo hiệu một thời kỳ lịch sử đen tối của dân tộc chúng ta - thời kỳ trăm năm thuộc địa của Pháp. Tuy nhiên, dưới cơn bi kịch lớn ấy, tinh thần bất khuất của người dân miền Nam và của toàn bộ người Việt Nam vẫn tỏa sáng bởi cái ý tưởng cao đẹp của những nghĩa sĩ tại Cần Giuộc - họ sẵn sàng hi sinh vì lý tưởng cao cả và vì dân tộc.

3. Phân tích hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc:

Nghĩa sĩ Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), một nhà trí thức yêu nước đầy đam mê và căm hận sâu sắc. Ông đã trải qua nhiều bi kịch và đau thương trong cuộc đời. Có lẽ vì vậy, ông đặc biệt cảm nhận được nỗi đau mất nước khi thực dân Pháp xâm lược đất nước chúng ta. Vào năm 1859, quân Pháp tiến vào sông Bến Nghé để chiếm giành thành phố Gia Định, và ông buộc phải lánh tạm ở quê vợ ở Thanh Ba, Cần Giuộc. Sau khi chiếm được Gia Định, thực dân Pháp bắt đầu mở rộng cuộc tấn công ra các vùng lân cận. Cũng không mất nhiều thời gian, Cần Giuộc đã bị quân Pháp tấn công. Những người nông dân thời đó, mặc áo vải, chân trần, tay thô thành đứng lên đấu tranh. Họ tham gia vào cuộc chiến vì ý tưởng cao cả, sẵn sàng hy sinh vì lợi ích dân tộc. Trong số đó, nhiều nghĩa sĩ đã hy sinh dũng cảm. Những hình ảnh hy sinh đó đã khiến người dân cảm kích lớn. Thầy Đỗ Quang, người quản lý trường tổng ở Gia Định, đã giao cho Nguyễn Đình Chiểu viết bài văn tế để trình diễn trong lễ tưởng niệm cho hơn hai mươi nghĩa sĩ đã hy sinh trong trận đánh vào đêm ngày 16-12-1861. Với lòng ngưỡng mộ và lòng thương tiếc mãnh liệt, Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tác bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Bài văn tế không chỉ thể hiện tình cảm đau xót không hạn của tác giả và cả của nhân dân dành cho những nghĩa sĩ Cần Giuộc, mà còn miêu tả vẻ đẹp chân thực, mạnh mẽ và cao cả của những người nông dân yêu nước trong cuộc chiến chống Pháp.

Hỡi trời ơi! Đạn súng kẻ thù rung trời; lòng dân tỏa sáng..

Khi đất nước gặp hiểm nguy, tiếng súng vang lên khắp nơi. Chính những khốc liệt đó, thăng trầm đau lòng, tình yêu với quê hương của những người dân thường mới thực sự hiện hữu. Vẻ đẹp chân thực của tâm hồn chỉ thể hiện được với trời đất là chúng.

Tấm lòng, tình yêu với quê hương, và sự yêu mến đối với đất nước của những người nông dân giản dị được thể hiện một cách rõ nét và sâu sắc hơn thông qua việc tác giả sử dụng liên tục biện pháp so sánh đối lập trong các câu tiếp theo.

Nhớ mãi những kỷ niệm xưa:

Trước đây, họ chỉ là những người nghèo khó, chỉ biết làm việc nông nghiệp và sinh sống trong cảnh tịch tĩnh. Cuộc sống của họ luôn xoay quanh nỗi lo về miếng cơm manh áo và cuộc sống giản dị. Họ chỉ quen làm việc như cày, bừa, cấy, hái và làm bạn với trâu và ruộng đồng. Họ chưa từng biết đến việc cung ngựa, đến trường nhung và chưa được tập mác và tập cờ. Những người nghĩa sĩ ở đây chỉ là những người nông dân mặc áo vải, không quen với chiến trận và không được huấn luyện rèn. Nhưng chỉ vì lòng yêu nước và chính nghĩa mà họ dũng cảm đứng lên chống lại kẻ thù.

Khi "tiếng súng nổ rền hơn mười tháng", họ mong chờ lệnh của triều đình: "như ngóng trông mưa trong trời hạn".

Thì mới thấy bi kịch vừa đau lòng ở đây: triều đình yếu đuối, không thấu hiểu lòng yêu nước của nhân dân. Sự căm thù giặc của người nông dân không thể kìm nén:

Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, hiểu thấy như nhà nông ghét cỏ... Khi thấy bề ngoài bọ chó che trắng lốp, lòng muốn đến ăn gan; Khi xem ống khói chảy đen xì, lòng muốn ra cắn cổ.

Hình tượng những người nông dân, những người yêu nước hiện lên vô cùng dũng mãnh và gan dạ. Tình yêu quê hương từ sâu thẳm trong trái tim họ đã làm cho họ trở nên rực rỡ và lấp lánh.

Vẻ đẹp của những người nông dân yêu nước hiện lên rõ ràng qua sự phẫn uất đối với kẻ thù. Sự phẫn uất này đã biến thành một cuộc khởi nghĩa đầy hào hùng.

Không ai có thể trốn tránh, quân thù hãy chuẩn bị: Chẳng muốn trốn lại đường, lần này tôi sẽ tung ra những cú đánh mạnh như con hổ.

Trong những tác phẩm phản đối chiến tranh phong kiến phi nghĩa trước đây, khi nông dân phải làm lính biên thú phương xa để bảo vệ lãnh thổ của nhà vua, họ đi xa với tâm trạng buồn bã, cảm xúc như mưa. Tuy nhiên, người nông dân của Nguyễn Đình Chiểu có một tư duy hoàn toàn khác biệt. Họ tự giác, tự nguyện chiến đấu để bảo vệ đất nước, đó là vẻ đẹp tinh thần thật tuyệt vời của người nông dân - nghĩa sĩ Cần Giuộc. Nhiều hình ảnh trong tác phẩm thể hiện sự đẹp đẽ của hành động và tâm hồn những người nông dân yêu nước. Từ lòng tự nguyện gánh vác trách nhiệm lịch sử, họ nhận được sức mạnh vô hạn. Họ không chờ đợi mà chỉ đích thân đứng lên chống giặc. Mặc dù chỉ có một cái áo vải, một cây tầm vông, một chiếc dao, một chiếc nón, nhưng hình ảnh của người nông dân trong tác phẩm khiến ta cảm thấy tự hào và đồng thời xót xa. Những người nghĩa sĩ trở thành biểu tượng của một sức mạnh toàn dân. Trước kẻ thù hùng mạnh, với đạn nhỏ, đạn lớn, với tàu thiếc, tàu đồng, họ chỉ có áo vải, tầm vông, dao phay và hỏa mai đánh bằng rơm con cúi. Thực tế này khắc sâu vào lòng chúng ta. Đây là cảnh bi kịch của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc và cũng là bi kịch của cuộc sống của quê hương ta trong thời kỳ khó khăn đó. Tuy nhiên, chính từ bi kịch này đã làm rực rỡ hình tượng đẹp đẽ của những người nông dân yêu nước. Bằng lòng người mạnh mẽ, niềm yêu nước sôi nổi, họ đã làm những điều phi thường và tạo nên bản anh hùng ca chiến tranh của dân tộc. Dù đối mặt với hiểm nguy và sự chênh lệch, sự đối ngược của hoàn cảnh chiến đấu, họ vẫn quyết để chiến và chiến thắng, hy sinh vì tình yêu quê hương. Mặc dù hoàn cảnh chiến đấu khó khăn, nhưng nhờ tâm hồn quyết tâm và sẵn sàng hy sinh, hiệu quả của cuộc chiến là vô cùng lớn.

Chỉ với những vũ khí đơn giản như:

Hỏa mai châm bằng cọc rơm, cũng khiến ngôi nhà thờ bốc cháy, Gươm sử dụng lưỡi dao phay, cũng đứt đầu quan nhỏ kia. Kẻ xông vào, người đánh từ phía sau, đối thủ chùn tay chân sợ hãi...

Chỉ với những vũ khí đơn giản, nhưng lòng yêu nước và tinh thần dân tộc đã tạo nên những điều kỳ diệu. Hình ảnh của những người nghĩa sĩ nông dân hiện lên với một vẻ đẹp tuyệt vời và sự tỏa sáng của chủ nghĩa yêu nước, như thể đã làm mờ đi thời kỳ tối tăm trong lịch sử mất nước vào cuối thế kỷ XIX.

Bài văn được coi như một bức tượng đài, sử dụng ngôn từ và tác phong văn chương để tạo ra hình ảnh hùng hồn, đầy ấn tượng của những người nghĩa sĩ nông dân, đại diện cho tinh thần yêu nước và sự căm thù đối với kẻ xâm lược của các tổ tiên. Bức tượng đài này là một biểu tượng cho bi kịch to lớn của dân tộc - bi kịch mất nước, và đồng thời đại diện cho một thời kỳ đen tối trong lịch sử dân tộc chúng ta - thời kỳ trăm năm thuộc địa của Pháp. Tuy nhiên, trong cái bi kịch lớn đó, tinh thần không khuất phục của nhân dân miền Nam và của người Việt Nam nói chung vẫn tỏa sáng nhờ vào lý tưởng cao đẹp của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc - họ sẵn sàng hy sinh vì mục tiêu cao cả, vì dân tộc.

4. Phân tích hình tượng người nghĩa sĩ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc:

Trong văn học Việt Nam, cho đến Nguyễn Đình Chiểu, chưa từng có một hình ảnh đặc trưng và cảm động hơn nhân vật nghĩa sĩ trong tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Trước đây, văn chương Việt Nam đã xuất hiện con người bình thường nhưng chúng thường là những hình tượng mờ nhạt như ngư phủ hoặc tiểu phu xuất hiện lướt qua trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan, hoặc là những hàng ngày loay hoay trong cục đất củ khoai, trở thành "kiêu binh" lố nhố trong cuộc sống vụn vặt của Hoàng Lê nhất thống chí.

Trong tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu, hình ảnh người nông dân hoàn toàn khác biệt. Họ là những người thực sự bình thường, sống trong làng xóm, không có gì nổi bật ngoài chiếc áo vải rách nát. Tính cách của họ rất hiền lành, thật thà và suốt cả năm tháng chỉ biết quanh năm làm việc miệt mài, khó khăn với cuộc sống nghèo khổ. Trong cái lũy tre làng, họ chỉ biết cày trồng, trong thành thục về nghề nông trang: cuốc cày, bừa cấy và cả việc làm khác. Như nhà thơ Thanh Thảo đã viết, "họ bước vào thơ Đồ Chiểu như những người sống chật chội trong sình lầy. Người nông dân không được trang bị kiến thức cao cả nhưng họ để lại những dấu vết trong cát bùn làm tăng phần kiêu hãnh cho thơ ca". Điều đó chính là sự yêu nước và tôn trọng lòng nghĩa của người nông dân.

Khi nhận được tin quân thù tới, dù là dân thường nhưng người nông dân vẫn tỏ ra lo lắng. Trong xã hội xưa, việc quốc gia và các sự kiện quan trọng là trách nhiệm của quan chức. Dân chúng luôn tuân theo quyền lực của quan chức và sẵn sàng đi theo quan chức. Họ mong chờ tin tức từ quan chức như kỳ vọng mưa sau hạn. Dù họ vẫn hy vọng và chờ đợi, nhưng lòng dạ của họ đã rõ ràng: "Khi thấy bóng đen che trắng lốp, họ muốn tới để bảo vệ; khi nhìn thấy khói đen mù mịt, họ muốn ra để đối mặt với nguy hiểm."

Lòng yêu nước không được phân chia cho ai độc quyền. Đặc biệt, đối với những người nông dân chân chất, khi sự trong sáng bị làm mất đi sau ba năm, họ căm ghét những thói quen như nhà nông căm ghét cỏ. Vì vậy, cho dù họ là người ở xóm, làng, chỉ có một phạm vi hẹp, họ sẵn sàng hy sinh vì ý nghĩa:

"Đốt nhà dạy đạo kia bằng củi, con cúi vái hỏa mai cũng cháy đi; dùng lưỡi dao phay để mang gươm, đánh chém xuống quan hai nọ cũng đầu hàng."

Quan lực không mệt mỏi kinh gióng trống, thúc đẩy, đạp qua rào, coi giặc như không có; không sợ kẻ Tây bắn đạn nhỏ, đạn lớn, tấn công, dám hy sinh như không hề có.

"Tấn công dọc ngang, chặt chém ngược, khiến cho ma quỷ, linh hồn khiếp sợ; bọn hè trước, đám sói sau, bỏ qua tàu sắt, tàu đồng bắn nổ."

Cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù của những người nông dân yêu nước là cuộc chiến không đều. Họ đã bị đánh bại từ đầu vì tự nguyện đứng lên mà không có sự tổ chức, không có binh sách. Trong khi đó, quân địch đã chuẩn bị kỹ càng, có sự tổ chức và kế hoạch. Họ đã bị thua cuộc trong cuộc chiến khi chỉ có một cái áo và một cây gậy trong tay, trong khi đối thủ có vũ khí như tàu sắt, tàu đồng, đạn nhỏ và đạn lớn. Tuy nhiên, tình yêu nước và sự căm thù đã khiến những người nông dân bất chấp tàu sắt và tàu đồng, hy sinh mình như không có ai. Tất cả đều biết rõ rằng hành động đó sẽ có giá trị cuối cùng. Nhưng những người nông dân triết hạnh càng hiểu rõ điều đó:

"Một giấc mơ trường tồn, đừng trông chờ vào da ngựa che trước; Trăm năm tối tăm ấy, đừng đợi gươm hùm trao thượng."

Những nông dân anh hùng đã trở thành "những anh hùng bất hạnh nhưng vẫn kiên trì" (theo Phạm Văn Đồng). Hình ảnh người nông dân anh hùng đã xuất hiện lần đầu tiên trong văn học Việt Nam với sự hùng vĩ. Chúng như một tượng đài vững chắc, tồn tại trong không gian và thời gian để truyền tải trọn vẹn ý nghĩa rằng: Họ đã hy sinh hết mình cho đất nước mà vẫn mang nợ, danh tiếng cao cả được khen ngợi từ sáu tỉnh; Họ đã sùng bái Chúa để được thờ cúng trong đền đài, tiếng tăm của họ trải dài từ thiên hạ đến đời sau ai cũng kính trọng.

Sự kết nối, tình yêu và sự ngưỡng mộ đã khiến Nguyễn Đình Chiếu miêu tả hình ảnh người nông dân anh hùng Giuộc một cách hùng tráng. Hình ảnh này mang trong mình trọng lượng của một thời đại "nước mắt anh hùng rơi mãi không ngừng" và trái tim yêu thương chân thành của nhà thơ mù đất Đồng Nai - Gia Định. Những anh hùng "sống để chiến đấu giữ vững đất nước - họ còn chiến đấu đối mặt với thác nước". Trái lại, nhà thơ đã xây dựng lại tượng đài này "vào đời muôn đời" trong ký ức tâm hồn của con người thông qua văn chương.

5. Hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc:

“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là tác phẩm vĩ đại nhất của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, với ý nghĩa tình yêu nước và lòng thương dân sâu sắc. Ông đã tạo nên một kiệt tác nghệ thuật về những anh hùng nông dân trong thời kỳ chiến đấu chống ngoại xâm của dân tộc. Văn tế là một bài thánh ca ca ngợi những nhà nghĩa sĩ nông dân dũng cảm hy sinh vì sự tồn vong của quê hương.

Điểm đáng kinh ngạc ở những anh hùng này là tinh thần tự nguyện đánh đuổi địch, mặc dù họ chỉ là những người nông dân nghèo khó phải lao động cật lực quanh năm để kiếm sống. Cuộc sống hàng ngày của họ luôn xoay quanh việc tìm cách nuôi đủ bữa, không bị đói khổ và rách rưới. Họ hiểu rằng trong xã hội, họ chỉ là những kẻ hèn mọn, chỉ cần trả đủ thuế và không dám mơ tưởng đến việc công việc quan trọng. Công việc lớn như quốc sự là trách nhiệm của vua và các quan lớn. Tuy nhiên, hiện nay, Lang Sa đã xâm lược đất nước và gieo rắc sự khốn khó. Ba năm trôi qua mà không thấy bất kỳ quan quân nào xuất hiện, có lẽ chỉ còn lại những tên nhút nhát chạy trốn. Tình cảnh đó khiến họ không thể lờ đi và không ngừng chiến đấu. Tình yêu quê hương đã được truyền từ hàng ngàn đời qua máu và xương, họ tự nguyện đứng lên chống lại kẻ thù:

"Mang trách nhiệm vô cùng gian khổ và khủng khiếp, nhiệm vụ này bao gồm đối đầu một đối thủ mạnh mẽ hơn nhiều lần: đánh trả quân địch như một chúa sơn lâm."

Vẻ đẹp tinh thần của họ hiển hiệp trong việc đấu tranh và sẵn sàng hi sinh; họ tận tâm và cống hiến sức mình cho Tổ quốc. Điều đáng ngưỡng mộ hơn cả là dù chỉ là những người dân thường, họ đã tự tổ chức thành đội ngũ để tham gia chiến đấu, không phải là lính của triều đình. Mặc dầu không được đào tạo kỹ năng quân sự tới tận rất sâu, tinh thần hùng hồn ấy còn trở nên vĩ đại hơn khi nhìn vào những vũ khí mà họ cầm trong tay. Có thể nói, sự kiên cường của họ là hiển thị tình yêu nước và tinh thần vì nước, không phải chỉ là cái cử chỉ lễ phép hay câu khẩu hiệu. Kết cục, đối thủ không thể chống lại được súng và tàu chiến với những con cỏ chọi lớn, cắt lá tốt, hoặc gậy dẻo. Sức mạnh và khả năng của họ nằm trong trái tim, ý chí quật cường của người cầm vũ khí, vẻ đẹp oai phong của họ thật hào hùng, nhưng đằng sau sự hào hùng ấy lại là sự đau khổ, nỗi sầu bi muốn rơi nước mắt!

Vậy mà chúng ta hãy ngắm nhìn họ trong cuộc chiến. Mười mươi ngôn từ đều trở thành một bản tình ca, toả ra sức mạnh khí phách, hồng lửa chiến đấu của cuộc trận đánh quyết liệt và anh dũng:

"Hoả mai sử dụng bằng cỏ để đập, đã làm tiêu hủy nhà của giáo dân kia; gươm được gắn với lưỡi dao tiện lợi, đã chặt đầu quan lại bị đánh rơi.

Kẻ đâm ngang, người chém ngược, gây rối cho tâm hồn của những con ma ác, bọn ta trước, bọn yêu tinh sau, không quan tâm đến sự tàn phá của súng đạn."

Quả thực là tuyệt vời! Ai đó đã miêu tả rất tài tình hình ảnh của người nông dân nghĩa sĩ, những người lao động vất vả và nghèo khó, biến thành những anh hùng hùng mạnh trên chiến trường, chiếm lĩnh và chiến thắng. Với gươm cắt, ánh sáng của họ xuyên thủng và chém ngược, chiếm lĩnh không gian trận địa, làm kẻ thù hoảng sợ và mất mật. Tiếng hát và tiếng óa của họ vượt qua cả tiếng la hét từ những cỗ tàu sắt và đồng. Rơm nhỏ thành đống, gươm cắt đã đốt cháy trại địch, chém đầu cả hai quan lớn của địch. Đoạn văn này tràn đầy những động từ và cụm động từ, mô tả các hành động hùng dũng và tràn đầy sức mạnh. Trước sự xuất hiện của những anh hùng ấy, quân địch hung dữ với những khẩu súng gầm gừ, đều trở nên nhút nhát, yếu đuối đến tột cùng. Ta có thể nói hình bóng của người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc đã hiện lên như một tượng đài vĩ đại trên bầu trời đỏ lửa.

Tâm trạng chính của đoạn văn này là cảm xúc hùng tráng, ngôn từ sắc sảo, nhịp điệu nồng nhiệt và đầy sức sống. Nghệ thuật so sánh đã được khai thác hiệu quả nhất. Tất cả cùng tạo nên một bức tranh ca ngợi chiến trận hùng hậu, thúc đẩy của một truyện anh hùng diệu kỳ. Ngòi bút của tác giả hoàn toàn xứng đáng với hành động cao cả của những người nông dân nghĩa sĩ, với những ý niệm vĩ đại mà tác giả đã phát hiện trong hành động tự nguyện giết giặc cứu nước. Gần ba chục người nông dân nghĩa sĩ đã hy sinh trong trận chiến kinh khủng này. Sự chết oan uổng của họ khiến cả thiên nhiên và con người đều thương tiếc: "Đồi sông Cần Giuộc, cỏ cây tràn đầy nỗi buồn; khi nhìn chợ Trường Bình, già trẻ đều chìm trong nỗi đau nhỏ". Những người đã hy sinh vì đất nước, vì dân tộc, không thể không khiến ta xúc động đối với đồng bào và quê hương.

Tượng đài nghệ thuật về nông dân anh hùng được xây dựng bằng cả tinh thần và nước mắt, trong âm thanh của những lời khóc đau từ cả nhà thơ và nhân dân. Đây là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời của nhà thơ yêu nước, Nguyễn Đình Chiểu. Bài văn tưởng như một tấm bia, một cột đánh dấu, một tượng đài văn minh vinh danh nông dân anh hùng nam bộ và công lao sáng ngời của nhân dân lao động.