1. Nhân thân là gì?
Khi nhắc đến nhân thân, chúng ta đề cập đến bản thân của mỗi người trong xã hội, với những tâm lý và đặc điểm có tính chất xã hội. Một cách đơn giản, nhân thân là một trong những quyền dân sự cá nhân quan trọng.Quyền được gọi là nhân thân chỉ có thể được hình thành, thay đổi hoặc chấm dứt thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ví dụ như qua việc kết hôn, đăng kí sinh tử, đăng kí tử vong, công nhận quan hệ gia đình. Nhân thân bao gồm các đặc điểm của bản thân, như giới tính, tuổi tác, trình độ học vấn, văn hoá, cách cư xử và hành vi đạo đức. Những yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi và nhận thức của chúng ta trong các mối quan hệ xã hội. Quan hệ nhân thân bắt nguồn từ quan hệ gia đình và không thể chuyển giao quyền nhân thân cho người khác.
2. Đặc điểm của nhân thân:
.The rights of individuals concerned are recognized in the Law on Civil Law in 2015, based on the inheritance and development provisions of the Law on Civil Law in 2005. The rights of individuals concerned include the following specific rights: The right to have a surname and given name (Article 26); The right to change the surname (Article 27); The right to change the given name (Article 28); The right to determine, re-determine ethnicity (Article 29); The right to registration of birth and death (Article 30); The right regarding citizenship (Article 31); The right of individuals concerning their image (Article 32); The right to life, to ensure safety in terms of life, health, and body (Article 33); The right to protect honor, dignity, and reputation (Article 34); The right to donate, receive organs, body parts, and donate, retrieve corpses (Article 35); The right to re-determine gender (Article 36); Gender conversion (Article 37); The right to privacy, personal secrets, and family secrets (Article 38); and The rights of individuals concerned in marriage and family (Article 39).
The Civil Law regulates personal relationships and specifies some fundamental characteristics and nature as follows:
- Truyền tải giá trị tinh thần:
Quan hệ giữa con người theo quy định của Luật Dân sự liên quan đến lợi ích tinh thần. Lợi ích tinh thần cũng là những giá trị tinh thần được công nhận theo pháp luật và được đánh giá cao bởi cộng đồng, như danh dự, địa vị và uy tín. Ngoài ra, quan hệ giữa con người còn bao gồm thành quả của hoạt động sáng tạo trong các lĩnh vực khác nhau như văn chương, hội hoạ, văn học và quyền sở hữu trí tuệ. Tóm lại, quan hệ giữa con người bao gồm cả những giá trị lợi ích tinh thần liên quan đến quyền sở hữu tài sản.
– Tính chất phi tài sản:
Quan hệ nhân thân mang tính chất phi tài sản, trong đó không thể định đoạt bằng tiền – giá trị tinh thần của quan hệ nhân thân không thể đổi lại được bằng số tiền tương đương.
– Tính liên kết với chủ thể:
Quyền nhân thân luôn liên kết với chủ thể. Pháp luật dân sự công nhận quyền nhân thân là quyền dân sự liên kết với mỗi cá nhân mà không được chuyển nhượng cho chủ thể khác (không thể chuyển giao). Các quyền dân sự nói chung và quyền nhân thân nói riêng đều được pháp luật công nhận cho mỗi chủ thể dựa trên những điều kiện kinh tế - xã hội đặc thù. Vì vậy, thông thường và phổ biến trong các giao dịch dân sự, quyền nhân thân không thể là đối tượng của giao dịch. Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp đặc biệt pháp luật cho phép chuyển giao quyền nhân thân (ví dụ như khoản 2 Điều 45 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định về chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan, đặc biệt là quyền công bố tác phẩm có thể được chuyển nhượng).
- Tính không thể bỏ qua được:
Các quyền nhân thân không thể hạn chế hoặc tước đoạt, dù có quy định của pháp luật. Mỗi cá nhân có những giá trị nhân thân riêng biệt cần được bảo vệ đồng đều nếu những giá trị này bị vi phạm.
- Tính không thể di chuyển, chuyển nhượng:
Nguyên tắc, khi một cá nhân ra đời, họ tự nhiên được sở hữu những quyền cơ bản về nhân thân. Những quyền này được luật pháp bảo vệ và duy trì. Quyền cơ bản đầu tiên mà mỗi cá nhân hưởng thụ khi sinh ra là quyền được đăng ký chính thức. Cho nên, có thể khẳng định rằng quyền cơ bản không phụ thuộc hay bị ảnh hưởng bởi bất kỳ yếu tố nào như tuổi tác, trình độ, môi trường sống,... Tuy nhiên, như đã phân tích trước đó, vẫn có một số hoàn cảnh đặc biệt mà luật quy định quyền cơ bản có thể được chuyển nhượng; chẳng hạn, như đã đề cập trước đó, quyền chuyển nhượng quyền công bố tác phẩm của tác giả theo các quy định của pháp luật dân sự.
3. Phân loại quan hệ nhân thân:
Như đã phân tích trong phần trên, trong lĩnh vực pháp luật dân sự có thể chia quan hệ nhân thân thành hai nhóm chính: quan hệ nhân thân liên quan đến tài sản và quan hệ nhân thân không liên quan đến tài sản.- Quan hệ nhân thân liên quan đến tài sản là nhóm các quan hệ xuất phát từ các giá trị tinh thần ban đầu, thông qua những hoạt động sáng tạo, các chủ thể sẽ được hưởng các lợi ích vật chất từ việc chuyển giao, chuyển nhượng quyền nhân thân trên.
– Quan hệ con người không liên quan đến tài sản: Những quan hệ con người này bắt nguồn từ giá trị tinh thần và các giá trị tinh thần này không có nội dung kinh tế và hoàn toàn không thể chuyển giao được.
4. Phân biệt nhân thân và thân nhân:
Hiện nay có rất nhiều người không hiểu hay có những khái niệm hết sức mơ hồ trong khi phân biệt giữa sự nhân thân và thân nhân. Vậy sự nhân thân và thân nhân có đặc điểm gì khác nhau:– Nhân thân đề cập đến các quy định pháp lý liên quan đến cá nhân, bao gồm ngày tháng năm sinh, giới tính, địa chỉ, tình trạng hôn nhân, quan hệ gia đình, nghề nghiệp, hình phạt trước đó và lịch sử tư pháp của mỗi người. Quyền nhân thân là quyền cơ bản không thể chuyển nhượng cho người khác, trừ khi có quy định khác trong pháp luật. Quyền này liên quan đến cá nhân và chỉ có thể được thay đổi hoặc chấm dứt bằng quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Nhân thân cũng đóng vai trò quan trọng trong vụ án hình sự và quyết định tuyển dụng trong một số ngành đặc biệt như công an.
– Thân nhân là những người mà chúng ta có mối quan hệ đặc biệt và gắn bó nhất với mình, dựa trên quan hệ huyết thống, sở thích chung và các quan hệ đặc biệt khác. Thuật ngữ "thân nhân" thường được sử dụng để chỉ quan hệ giữa cha mẹ và con cái, anh chị em.
Ví dụ theo quy định của pháp luật về thân nhân của những người có công với cách mạng bao gồm:
+ Cha, mẹ, vợ hoặc chồng, con từ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi hoặc từ 18 tuổi trở lên nếu vẫn đang đi học hoặc mắc các khuyết tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng, con kháng chiến nhiễm chất độc hóa học đang nhận trợ cấp hàng tháng.
+ Người thân của liệt sĩ, người đã có đóng góp trong việc chăm sóc cho liệt sĩ;
+ Cha, mẹ, vợ hoặc chồng, con từ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi hoặc từ 18 tuổi trở lên nếu tiếp tục đi học hoặc có khuyết tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng của: Anh hùng của lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động trong thời kỳ kháng chiến; thương binh, bệnh binh, người tham gia hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học với tỷ lệ suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.
5. Phân biệt quyền nhân thân và quan hệ nhân thân:
– Quyền nhân thân: Đây là một trong số những quyền dân sự mà pháp luật quy định và bảo hộ trong Điều 24 và Điều 51 của Bộ luật dân sự về quyền nhân thân. Vì vậy, quyền nhân thân có mối liên hệ trực tiếp với cá nhân từ lúc ra đời cho đến khi qua đời. Mọi cá nhân đều được đối xử bình đẳng trong quyền nhân thân. Quyền nhân thân là nền tảng quan trọng tạo nên quan hệ nhân thân.– Quan hệ nhân thân: Đây là những quan hệ xã hội liên quan đến giá trị của con người cá nhân hoặc tổ chức. Nó bao gồm quan hệ nhân thân liên quan đến tài sản như quyền tác giả, quyền sáng chế,... và quan hệ nhân thân không liên quan đến tài sản như họ tên, quốc tịch, uy tín, danh dự, v.v. Quan hệ nhân thân luôn gắn liền với một chủ thể nhất định và, theo nguyên tắc, không thể chuyển nhượng cho chủ thể khác. Nó phát sinh dựa trên quy phạm pháp luật, là sự thỏa thuận giữa các cá nhân hoặc tổ chức để thiết lập quyền nhân thân của từng cá nhân hoặc tập thể, tuân thủ các quy định quyền nhân thân quy định trong Bộ luật dân sự và phù hợp với các điều kiện pháp lý và khả năng của chủ thể. Điều này đồng nghĩa với việc có những quy định về quyền nhân thân mới sẽ gây ra việc phát sinh quan hệ nhân thân.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết: Bộ luật Dân sự năm 2015