1. Quy định hình phạt trục xuất theo pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1999:
1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến khi chấm dứt hoàn toàn việc áp dụng pháp luật của chế độ thực dân phong kiến, được coi là giai đoạn bắt đầu xây dựng hệ thống pháp luật hình sự mới của Nhà nước kiểu mới. Trong giai đoạn lịch sử này, nghiên cứu pháp luật hình sự đã phát hiện ra một số đặc điểm chung về quy định hệ thống hình phạt như sau:Thứ nhất, trong khi chưa xây dựng được hệ thống pháp luật hình sự mới đúng thời gian, cần có việc loại bỏ một số bộ phận của các đạo luật hình sự thời thực dân - phong kiến.
Thứ hai, chúng ta đã xây dựng nền móng cho hệ thống pháp luật hình sự của chế độ mới. Đồng thời, chúng ta cũng đã tăng cường nền móng này bằng cách ban hành các văn bản pháp luật hình sự mới, với mục tiêu chính là bảo vệ thành quả cách mạng của chúng ta. Trong những văn bản pháp luật hình sự này, chúng ta đã quy định và hoàn thiện hình phạt trục xuất, cụ thể là trong Sắc lệnh số 205-SL ngày 18/08/1948 về việc quy định thể lệ trục xuất ngoại kiều. Đây là sắc lệnh mà chúng ta đã ban hành để bảo vệ lãnh thổ toàn vẹn trong bối cảnh chiến tranh đang diễn ra. Theo sắc lệnh này:
Có thể bị đuổi khỏi nước:
1- Những người nước ngoài có hành động hoặc phát ngôn gây hại đến an ninh, trật tự công cộng hoặc cuộc chiến tranh của quốc gia.
2- Sau khi kết thúc thời gian tù, hoặc được ân xá hay phóng thích, các công dân nước ngoài đã bị một tòa án ở Việt Nam tuyên án về tội đại hình hoặc tiểu hình.
3- Các công dân nước ngoài đã bị một tòa án ở nước ngoài tuyên án về các tội phạm thường xuyên, tiểu hình hoặc đại hình.
4- Những người nước ngoài được xem là kẻ trộm, lang thang, thất nghiệp hoặc không được phép sinh sống tại Việt Nam theo quy định của Chính phủ.
Ngoài ra, Sắc Lệnh còn quy định quyền hạn và thủ tục áp dụng việc trục xuất như sau:
Khi xem xét việc trục xuất một người nước ngoài trong các trường hợp nêu trên, Bộ trưởng Bộ Nội vụ sẽ đưa ra quyết định trục xuất người đó ra khỏi đất nước. Bộ trưởng có thể ủy quyền cho các Ủy ban kháng chiến hành chính liên Khu để thực hiện việc trục xuất người nước ngoài, nhưng mỗi khi có quyết định, Ủy ban phải ngay lập tức thông báo cho Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
Quyền hình phạt trục xuất được áp dụng như sau:
Nghị định trục xuất cảnh ngoại cần phải:
1- Nêu rõ lý do của việc trục xuất;
2- Yêu cầu công bố danh tính của cá nhân bị đuổi khỏi. Bên cạnh đó, nghị định cũng có thể đặt thời hạn mà người ngoại quốc bị đuổi phải rời khỏi lãnh thổ Việt Nam, hoặc yêu cầu các viên chức chịu trách nhiệm đưa họ ra khỏi biên giới.
Tổng quát, hình phạt đuổi trong giai đoạn này còn thiếu chú trọng, chưa định rõ nội dung, điều kiện, quyền và nghĩa vụ của người bị đuổi.
1.2. Trong giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1985, sau khi không áp dụng pháp luật hình sự của chế độ thực dân phong kiến nhưng trước khi pháp điển hóa luật hình sự lần đầu tiên với việc ban hành Bộ luật hình sự năm 1985, việc nghiên cứu Luật hình sự trong giai đoạn lịch sử này đã đưa ra một số đặc điểm về hình phạt trục xuất như sau:
– Tuyệt đối loại bỏ việc áp dụng các quy định về hình phạt trục xuất trong các đạo luật hình sự của thời kì thực dân phong kiến. Thực tế cho thấy kể từ khi hòa bình được thiết lập, sự cách mạng đã bước sang một giai đoạn mới, với nhiều văn bản pháp luật, chính sách, đường lối, và án lệ; do đó, việc áp dụng luật lệ của chế độ cũ không còn phù hợp và gây trở ngại đáng kể cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm vào thời điểm đó.
Bên cạnh việc loại bỏ hoàn toàn các luật của chế độ trước đây, chính phủ Việt Nam đã tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật hình sự. Nhiều quy định mới đã được ban hành, tuy nhiên việc áp dụng và thi hành hình phạt trục xuất vẫn chưa có sự phát triển mới trong quá trình lập pháp. Điều này rõ ràng được chứng minh trong khoảng thời gian từ năm 1954 đến trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành, không có quy định mới liên quan đến hình phạt trục xuất.
1.3. Trong giai đoạn từ năm 1985 đến năm 1999:
Bộ Luật Hình sự năm 1985 được áp dụng từ ngày 01/01/1986 đã phản ánh chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước Việt Nam, thể hiện sự thống nhất về tội phạm và hình phạt trong hệ thống luật pháp toàn diện. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, trục xuất chưa được xem như một hình phạt trong hệ thống hình phạt. Theo chính sách này, đối với người nước ngoài tại Việt Nam trong thời kỳ này, chủ yếu sử dụng biện pháp ngoại giao linh hoạt, bao gồm xử lý vi phạm pháp luật của người nước ngoài. Cụ thể, khoản 2 Điều 5 Bộ Luật Hình sự năm 1985 quy định:
"Người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ của Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thuộc đối tượng được hưởng các đặc quyền ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ theo pháp luật về lãnh sự."
Việt Nam thừa nhận và thực hiện trách nhiệm hình sự của mình theo các hiệp định quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc công nhận, hoặc theo quy tắc quốc tế.
Người nước ngoài khi phạm tội tại nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị truy tố trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam, tuân theo các điều khoản được quy định trong các hiệp định quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc công nhận.
Tóm lại, trong thời điểm Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực, hình phạt trục xuất chưa được quy định rõ ràng và thiếu nhất quán, thường được xử lý thông qua các biện pháp mềm dẻo trong lĩnh vực ngoại giao.
2. Quy định hình phạt trục xuất theo pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1999 đến nay:
Tại Điều 37 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về hình phạt trục xuất như sau:“Điều 37. Trục xuất
Trục xuất là khi bị buộc phải rời xa đất nước Việt Nam sau khi bị kết án, theo quy định của Tòa án. Cách áp dụng trục xuất có thể khác nhau tùy theo từng trường hợp cụ thể.
Một điểm đặc trưng của hình phạt trục xuất là nó không được xem là một hình phạt chính trong Bộ luật hình sự. Khi quyết định về hình phạt, Tòa án có thể xem xét và áp dụng hình phạt trục xuất đối với người nước ngoài phạm bất kỳ tội nào qui định trong Bộ luật hình sự. Tùy thuộc vào tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội và mức độ ảnh hưởng đến các quan hệ xã hội được bảo vệ bởi luật hình sự, sẽ có những tình tiết được áp dụng như tăng hoặc giảm hình phạt, hay miễn trách nhiệm hình sự đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam. Hình phạt trục xuất được quy định tại một số điều luật trong Bộ luật hình sự hiện hành, theo đó, căn cứ vào mức độ nguy hiểm của tội phạm, hình phạt trục xuất sẽ được áp dụng đối với người phạm tội.