1. Khi nào nhà nước được cưỡng chế thu hồi đất của người dân?
Nhằm tương phản với khái niệm giao đất, việc cho thuê đất là những hình thức pháp lý tạo ra một quan hệ pháp luật về đất đai trong khi thu hồi đất là một biện pháp pháp lý để chấm dứt quan hệ pháp luật về đất đai. Theo từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, thu hồi đất được hiểu là việc cơ quan nhà nước có quyền thu hồi quyền sử dụng đất của những người vi phạm quy định về sử dụng đất để nhà nước giao cho người khác sử dụng hoặc trả lại cho chủ sử dụng đất bị lấn chiếm. Nếu cần thiết, Nhà nước sẽ thu hồi đất đang sử dụng của người sử dụng đất để phục vụ mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia và công cộng. Đồng thời, Luật Đất đai năm 2013 đã đưa ra khái niệm về thu hồi đất trong Quy định 11 Điều 4, tuân thủ theo Hiến pháp năm 2013.Trong quá trình thu hồi đất, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và cưỡng chế thu hồi đất rất quan trọng. Thực tế đã chỉ ra rằng các quốc gia phát triển như Việt Nam đều phải trải qua giai đoạn công nghiệp hóa và đô thị hóa để phát triển. Do đó, việc thu hồi đất luôn đảm bảo vị trí và vai trò quan trọng trong việc đạt được thành công trong công tác công nghiệp hóa và đô thị hóa, và thu hồi đất là bước đầu tiên để triển khai các dự án đầu tư để phục vụ quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Việc cưỡng chế thu hồi đất cũng là một cách rõ ràng cho nhà nước thể hiện quyền lực của mình.
Như vậy, để tiến hành cưỡng chế thu hồi đất theo khoản 2 Điều 71 Luật Đất đai năm 2013 hiện hành, các điều kiện sau phải được đáp ứng:
- Người sở hữu đất bị thu hồi phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền vận động và thuyết phục, tuy nhiên, không tuân thủ quyết định.
- Quyết định cưỡng chế để thực hiện việc thu hồi đất đã được công khai tại trụ sở ủy ban nhân dân cấp xã hoặc địa điểm sinh hoạt chung của cư dân tại nơi đất bị thu hồi;
- Quyết định cưỡng chế thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp lý;
2. Chống đối cán bộ thu hồi đất thì bị xử phạt như thế nào?
Có thể nhìn thấy rằng, công tác tuyên truyền phổ biến về pháp luật trong quá trình giải quyết vấn đề mặt bằng đã được quan tâm và chú trọng tại cả nước. Nhờ đó, phần lớn các hộ dân ở địa phương tuân thủ chính sách và quyết định của nhà nước, nhằm đảm bảo việc bàn giao đất cho các chủ đầu tư và thúc đẩy tiến độ dự án triển khai nhanh chóng. Tuy nhiên, vẫn còn một số người dân với nhận thức chưa đầy đủ về chủ trương và chính sách của Đảng và nhà nước về các dự án quan trọng. Một số hộ dân cố tình chống lại quá trình kiểm đếm và không chấp hành chính sách, từ chối bàn giao đất cho dự án. Đồng thời, họ còn tạo ra sự gây cản trở, thuyết phục người khác không tuân thủ chính sách nhà nước, gây trì hoãn quá trình triển khai và đẩy mạnh vận động quần chúng. Trong những trường hợp đặc biệt, cán bộ quận huyện phải áp dụng biện pháp kiểm đếm và cưỡng chế bàn giao đất cho dự án.Theo Khoản 2, Điều 21 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định về việc cản trở, chống lại hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm soát của cán bộ người thi hành công vụ hoặc việc đưa hối lộ cho họ, một số cách thức gồm:
- Gây trở ngại, làm khó khăn hoặc không tuân thủ yêu cầu của cán bộ người thi hành công vụ trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm soát hoặc các nhiệm vụ khác, đặc biệt là cán bộ thu hồi đất.
- Có những lời lẽ, hành vi xúc phạm, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của những người làm công việc quản lý và thi hành công vụ;
- Tổ chức, kích động, hỗ trợ, kéo người khác không tuân thủ yêu cầu, làm trở ngại cho hoạt động của những người làm công việc quản lý và thi hành công vụ.
Như vậy, việc cản trở cán bộ thu hồi đất được xem là vi phạm người thi hành công vụ, là một loại hình vi phạm người thi hành công vụ. Do đó, hành vi này có thể bị phạt tiền từ 4.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng theo quy định của pháp luật.
3. Chống đối cán bộ thu hồi đất có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Công vụ là một khái niệm phức tạp, cho đến nay ở nước ta chưa có một văn bản pháp luật nào đưa ra một cách hiểu thống nhất về công vụ. Dựa vào nghiên cứu, các hành vi chống đối với người thi hành công vụ mặc dù đa dạng nhưng đều có những đặc điểm chung như sau:Trước hết, đây là một hành vi có hại cho xã hội, hành vi sai chuẩn vì người thực hiện hành vi đã vi phạm các quy định của nhà nước và pháp luật cấm;
Tiếp theo, đây là hành vi chống đối và xâm phạm đến nhiều quan hệ xã hội được nhà nước và pháp luật bảo vệ;
Thứ ba, hành vi chống người thi hành công vụ được thực hiện với ý định và nguyên do khác nhau;
Thứ tư, có nhiều hình thức hành vi chống người thi hành công vụ, mọi ý định và nguyên do trên đều được biểu hiện qua các hành vi sau đây: Kháng cự; gây trở ngại; đe dọa và hăm dọa;
Thứ năm, mọi người được coi là người chống người thi hành công vụ nếu quyền lợi của họ bị hạn chế vì người thi hành công vụ hoặc vì lý do liên quan đến công việc, hoặc nếu họ đang bảo vệ một lợi ích bất hợp pháp để tránh sự can thiệp từ người thi hành công vụ.
Có thể hiểu chống người thi hành công vụ là các hành vi chống đối, cản trở, đe dọa, uy hiếp người thi hành công vụ xảy ra trước, trong hoặc sau khi người thi hành công vụ thực hiện công việc bằng sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực hoặc các phương pháp khác nhằm cản trở người thi hành công vụ trong việc thực hiện nhiệm vụ, trả thù người thi hành công vụ, đe dọa người khác hoặc ép buộc người thi hành công vụ thực hiện các hành vi trái pháp luật. Theo đó:
- Công việc của người thi hành công vụ phải làm theo chức danh cán bộ, công chức, viên chức của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, hoặc có thể là một công dân được cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu thực hiện nhiệm vụ;
- Người thi hành công vụ chỉ được coi là đang làm công việc thi hành công vụ khi công việc mà họ đang làm phục vụ các chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, tổ chức nhằm phục vụ lợi ích chung của nhà nước và xã hội. Nói cách khác, thi hành công vụ có nghĩa là thực hiện nhiệm vụ công (vì lợi ích chung của nhà nước và xã hội).
Căn cứ theo Điều 330 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) quy định về tội chống người thi hành công vụ. Theo đó, tùy thuộc vào mức độ và hành vi cản trở cán bộ thu hồi đất mà người vi phạm có thể bị phạt tù từ 06 tháng đến 07 năm theo quy định của pháp luật.
Theo Nghị định 208/2013/NĐ-CP, tại Điều 14, quy định về các biện pháp ngăn chặn hành vi chống người thi hành công vụ, mà
4. Các biện pháp ngăn chặn hành vi chống người thi hành công vụ khi thu hồi đất:
.- Giải thích rõ ràng cho những người vi phạm biết rõ hành động của họ đã vi phạm pháp luật, và yêu cầu họ ngừng ngay hành vi đó. Yêu cầu những người vi phạm cung cấp giấy tờ cá nhân (như chứng minh nhân dân, căn cước công dân) và các giấy tờ cần thiết khác để kiểm tra thông tin cá nhân.
- Áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với những người vi phạm pháp luật nhằm buộc họ chấm dứt hành vi vi phạm và tuân thủ các yêu cầu hợp pháp từ người thi hành công vụ.
- Bắt giữ kẻ chống đối người thi hành công vụ (đặc biệt là cán bộ thu hồi đất) và thực hiện kiểm tra trên người và phương tiện vi phạm; tước quyền sử dụng, vô hiệu hóa vật dụng nguy hiểm, vũ khí, chất nổ, và các công cụ hỗ trợ khác của kẻ vi phạm.
- Trong trường hợp những người vi phạm tập trung thành một nhóm, thực hiện các biện pháp vận động, thuyết phục; và khi cần thiết, sử dụng biện pháp cưỡng chế để duy trì trật tự công cộng, giải tán nhóm đông; ngăn chặn, bao vây, kiểm soát, cô lập và bắt giữ các cá nhân hoặc tổ chức đứng đầu, kích động.
- Trong trường hợp có hành vi vi phạm sử dụng vũ khí quân dụng hoặc vũ khí thô sơ tấn công người thi hành công vụ, người thi hành công vụ sẽ được sử dụng các biện pháp vũ lực, công cụ hỗ trợ và thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để tự vệ, tấn công, khống chế và bắt giữ người có hành vi chống đối. Vụ việc nổ súng trong quá trình thi hành nhiệm vụ sẽ tuân theo quy định tại Điều 22 của Pháp lệnh quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ và các quy định khác có liên quan.
- Xử lý người có hành vi chống đối người thi hành công vụ sẽ tuân theo quy định của pháp luật về vi phạm hành chính và hình sự, tố tụng hình sự. Đối với các vụ án chống người thi hành công vụ, đề nghị Tòa án có thẩm quyền tăng cường tổ chức xét xử di động nhằm đóng góp vào việc phòng ngừa và giáo dục chung.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Luật Đất đai năm 2013;
- Nghị định 208/2013/NĐ-CP quy định về việc ngăn chặn hành vi chống đối người thi hành công vụ;
- Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định về việc cản trở, chống đối trong việc thanh tra, kiểm tra, kiểm soát của người thi hành công vụ hoặc tham gia hối lộ người thi hành công vụ.