Theo TS Phan Bích Nga từ Viện Dinh dưỡng Quốc gia, theo phong tục truyền thống của người Việt Nam và khuyến nghị về ăn dặm cho trẻ, việc bắt đầu ăn dặm nên sử dụng bột gạo xay hoặc cháo xay nấu kèm thịt, trứng và rau. Trẻ có thể ăn bột ăn liền hoặc bột nấu trong những tháng đầu tiên của quá trình tập ăn dặm. Thức ăn nên được dần đặc từ loãng lên.
Ở các vùng nông thôn và miền núi, gia đình phải tự nấu ăn cho bé. Trong trường hợp đó, bữa ăn dặm của bé cần đảm bảo tính đầy đủ của 4 nhóm chất dinh dưỡng, bao gồm chất đạm, bột đường, dầu ăn và rau củ tươi.
Khi bắt đầu, cần cho bé ăn thức ăn nhuyễn hoàn toàn. Sau khi bé đã ăn nhuyễn thành thạo, hãy chuyển sang cho bé ăn thức ăn đã được nghiền nhỏ để rèn bé nhai. Nếu sử dụng bột ăn dặm đóng hộp, cần pha theo hướng dẫn trên bao bì.
Khi bắt đầu cho bé ăn dặm, tuân thủ nguyên tắc sau: dần dần cho bé ăn từ ít đến nhiều, từ loãng đến đặc, từ mịn đến hỗn hợp, từ một loại thức ăn đến nhiều loại thức ăn. Số lượng thức ăn trong một bữa tăng dần khi sức khỏe và hệ tiêu hóa của bé phát triển bình thường. Khi bé mới tập ăn, nấu bột thành chất lỏng, từ tháng thứ 9 bé có thể tập ăn cháo nghiền và sau đó chuyển sang ăn cháo đặc.
Khi bắt đầu, hãy bắt đầu cho bé ăn thức ăn nhuyễn hoàn toàn. Sau khi bé đã làm quen với việc ăn thức ăn nhuyễn một cách thành thạo, chúng ta nên chuyển sang cung cấp thức ăn nghiền hoặc nghiền nhỏ để bé tập nhai.
Hãy cho bé ăn nhiều bữa trong một ngày và tuân thủ đúng thời gian biểu cho ăn. Ban đầu, chúng ta có thể cho bé ăn bổ sung đến 6 bữa mỗi ngày, khoảng cách giữa các bữa là ít nhất 2 giờ. Trong số 6 bữa này, có thể có 3 bữa bú sữa và 3 bữa ăn bột lỏng. Dần dần, chúng ta có thể giảm số lượng bữa ăn xuống còn 5 bữa, bao gồm 2 bữa bú sữa và 3 bữa ăn bột sền sệt. Cuối cùng, chúng ta chỉ cần cho bé ăn 2 bữa bột đặc mỗi ngày. Nếu bé còn thèm bú sau khi ăn xong bột, chúng ta có thể cho bé bú thêm.
Đối với việc nuôi bộ cho trẻ, không nên ép buộc trẻ ăn hết suất ăn theo quy định, mà nên điều chỉnh theo khẩu phần ăn của bé. Nếu cho trẻ ăn thêm hoa quả, chỉ cần ăn đúng lượng cần thiết, ăn quá nhiều có thể ảnh hưởng đến sự hấp thụ chất dinh dưỡng trong thức ăn.
Trong giai đoạn này, trẻ cần bổ sung thức ăn do nhu cầu năng lượng tăng. Từ khi trẻ 6 tháng tuổi, nhu cầu năng lượng từ sữa mẹ chỉ cung cấp khoảng 450kcal/ngày, trong khi đó trong giai đoạn này, trẻ cần khoảng gần 700kcal/ngày. Khi trẻ mới bắt đầu ăn dặm, chỉ nên cho trẻ ăn thịt lợn thăn, cá tươi, 3/4 lòng đỏ trứng gà và dần tăng dần khẩu phần thực phẩm khác từ tháng thứ 7 trở đi.
Các thực phẩm cần giàu dinh dưỡng và năng lượng, đặc biệt là sắt, kẽm, canxi, vitamin A, C và folat (có nhiều trong thực phẩm từ nguồn gốc động vật như thịt lợn, bò, gà, hải sản như tôm, cua, cá, sữa...).
Thức ăn cho trẻ em phải đảm bảo vệ sinh và an toàn: không chứa các tác nhân gây bệnh (không có vi khuẩn hoặc sinh vật có hại); không có hóa chất độc hại; không có xương (cá cần được tách thịt, tôm cần được lột vỏ, nghiền nhuyễn, cắt vụn) hoặc các mảnh cứng có thể gây nguy hiểm cho trẻ em.
Không nên cho trẻ ăn các loại thức ăn có gia vị nóng, cay, mặn. Hơn nữa, cần chú ý về vệ sinh thực phẩm vì tỷ lệ rối loạn tiêu hóa cao nhất ở lứa tuổi ăn dặm: rửa sạch dụng cụ làm bếp và bát đũa khi chuẩn bị thức ăn cho trẻ, và đảm bảo cho trẻ ăn trong vòng hai giờ sau khi nấu.
Liệu nước hầm xương có tốt cho việc nấu bột và cháo cho trẻ không? Theo TS.BS. Đặng Ngọc Hùng, chuyên gia dinh dưỡng từ Viện Nghiên cứu và tư vấn dinh dưỡng, thực tế lại cho thấy hàm lượng dinh dưỡng trong nước hầm xương khá nghèo nàn.
Đầu tiên, vị ngọt của nước hầm xương không phản ánh sự bổ dưỡng mà là sự kết hợp của glutamin, một acid amin có trong thịt và xương. Khi nấu trong một thời gian, glutamin sẽ kết hợp với muối natri có sẵn trong thức phẩm để tạo thành monosodium glutamate (MSG), một chất tạo vị ngọt đặc biệt được gọi là umami.
Tiếp theo, trong nước hầm xương có chứa một lượng ít các chất khoáng như canxi và magiê. Tuy nhiên, so với các thực phẩm khác như sữa, trứng, cá, hạt khác, nước hầm xương nghèo hơn rất nhiều. Bên cạnh đó, nước hầm xương cũng chứa phốt pho và cholesterol cao, điều này có thể không tốt cho sức khỏe một số đối tượng như trẻ nhỏ, người có mỡ máu cao, người bị bệnh vẩy nến, bệnh nhân suy giảm chức năng thận.
BS. Hùng cho biết thêm rằng, cho bé ăn chỉ nước hầm xương không đáp ứng đủ lượng dinh dưỡng hàng ngày. Dù thực phẩm như thịt, cá, xương được ninh hầm, nhưng các chất dinh dưỡng không hoàn toàn hòa tan vào nước. Vì vậy, bạn nên cho con ăn cả phần thực phẩm đã ninh nhừ.
Nước hầm xương chứa ít đạm và canxi. Canxi trong nước hầm xương tồn tại dưới dạng vô cơ, gây khó khăn cho cơ thể bé hấp thụ. Nếu thường xuyên cho bé ăn nước hầm xương, bé có thể bị thiếu canxi, gây ra tình trạng còi xương, chậm mọc răng...
Mặc dù chứa nhiều chất béo, tuy nhiên chất béo trong tủy xương là chất béo động vật, khó tiêu hóa. Khi trẻ ăn thường xuyên, chất béo này sẽ bám vào thành ruột và dạ dày của bé, gây ra triệu chứng đầy bụng và chán ăn. Lâu dài, điều này sẽ ảnh hưởng đến sự cân bằng vi khuẩn trong ruột, gây ra tiêu chảy hoặc phân sống, và làm giảm khả năng hấp thu dinh dưỡng.
Theo ThS. BS. Đặng Ngọc Hùng, nước hầm xương không được coi là loại nước bổ như chúng ta thường nghĩ. Việc sử dụng nước hầm xương chỉ giúp tăng vị ngon và chất lượng của món ăn, và nên dùng như một thực phẩm thông thường thay vì coi nó là một loại đặc biệt dùng thay thế thức ăn cho người bệnh hoặc trẻ em. Điều này dẫn đến nguy cơ thiếu dinh dưỡng mà chúng ta không hề được biết đến.